Lịch sử Kom Tum
Một góc Kom Tum
Theo truyền thuyết của dân tộc Bana, Kon Tum ban
đầu chỉ là một làng của người Bana. Thuở ấy, vùng đồng bào dân tộc
Bana (nay thuộc thành phố Kon Tum) có làng người địa phương ở gần bên
dòng sông Đăkbla với tên gọi Kon Trang - OR. Lúc ấy, làng Kon Trang - OR
rất thịnh vượng với dân số khá đông. Bấy giờ, giữa các làng luôn gây
chiến với nhau để chiếm đoạt của cải và bắt người về làm nô lệ.
Hai con trai của Ja Xi - một trong số những người đứng đầu làng Kon
Trang - OR tên là Jơ Rông và Uông không thích cảnh chiến tranh đã làm
nhà ở riêng gần chỗ có hồ nước, cạnh dòng Đăkbla.
Vùng đất này rất thuận lợi cho phương thức sống định cư,
nên dần dần có nhiều người đến ở, mỗi ngày một phát triển thêm đông,
lập thành làng mới có tên gọi là Kon Tum. Từ đó, Kon Tum trở thành
tên gọi chính thức cho một làng mới lập của người Bana, cạnh dòng
Đăkbla, nơi có nhiều hồ nước trũng. Theo tiếng Kinh, Kon Tum có nghĩa
là Làng Hồ (Kon là làng, Tum là hồ, ao, bàu nước,...).
Do vị trí đặc biệt,
Kon Tum là vùng đất bằng, được dòng Đăkbla uốn quanh bồi đắp phù sa
màu mỡ. Trải qua những biến động, thăng trầm của lịch sử, vùng đất
này có nhiều biến đổi, đồng bào các dân tộc tụ hội về đây ngày
một đông. Người Kinh khi đến Tây Nguyên cũng chọn vùng đất Kon Tum làm
nơi định cư. Từ đó, Kon Tum trở thành vùng đất cộng cư của nhiều dân
tộc.
Phát huy những thuận
lợi về điều kiện tự nhiên với sự cần cù lao động của con người,
vùng đất Kon Tum ngày càng phát triển thịnh vượng, không chỉ một
làng mà nhiều làng, bao quát cả vùng đất đai rộng lớn. Vùng đất
này khi thành lập thị xã cũng mang tên gọi chính thức là Kon Tum. Khi
đơn vị hành chính cấp tỉnh được thành lập, Kon Tum vẫn chính thức
được dùng làm tên gọi của tỉnh. Đây là vùng địa lý hành chính được
hình thành sớm nhất ở Tây Nguyên.
Kon Tum thuở xưa còn
rất hoang vắng, người thưa, đất rộng. Các dân tộc bản địa gồm Xơ
Đăng, Bana, Gia Rai, Jẻ - Triêng, Brâu, Rơ Măm. Mỗi dân tộc gắn với một
vùng cư trú khác nhau. Nét đặc biệt trong thiết chế xã hội cổ
truyền của các dân tộc ở tỉnh Kon Tum là tổ chức xã hội duy nhất
chỉ có làng. Làng được xem như đơn vị hành chính mang tính bao quát
và cụ thể, chi phối mọi hoạt động trong đời sống xã hội. Mỗi làng
mang tính độc lập riêng biệt, do một chủ làng là người có uy tín
nhất trong làng đứng đầu.
Trong giai đoạn khởi
nghĩa Tây Sơn (1771 - 1786), ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn
Lữ đã xây dựng mối quan hệ đoàn kết với các dân tộc vùng này.
Năm 1840, dưới thời
vua Thiệu Trị, triều đình Huế lập Bok Seam - một người Bana làm quan
cai trị các bộ tộc Tây Nguyên, đồng thời cho phép người Kinh và người
các dân tộc được phép tự do quan hệ mua bán, trao đổi. Từ đây, những
lái buôn người Kinh bắt đầu đến với Tây Nguyên để mua bán, trao đổi
hàng hóa.
Trong thời gian này,
người Pháp cũng tìm đường đến Kon Tum để truyền đạo. Trong giai đoạn
1841 - 1850, thực dân Pháp đã đặt được cơ sở Thiên chúa giáo đầu tiên
ở Kon Tum.
Năm 1867, thực dân
Pháp bắt đầu tấn công xâm lược Kon Tum - Tây Nguyên. Bằng những thủ
đoạn thâm độc nhằm chia rẽ các dân tộc trong vùng, thực dân Pháp đã
thôn tính Kon Tum và Tây Nguyên.
Năm 1892, thực dân
Pháp đặt tại Kon Tum một tòa đại lý hành chính đầu tiên do một cố
đạo người Pháp là Vialleton, còn gọi là cha Truyền cai quản.
Ngày 4-7-1904, thực
dân Pháp thành lập tỉnh Plei Ku Der, bao gồm hai tòa đại lý hành
chính: một tòa ở Kon Tum (trước đó thuộc tỉnh Bình Định) và một
tòa ở Cheo Reo (trước đó thuộc tỉnh Phú Yên).
Ngày 25-4-1907, thực
dân Pháp chính thức bãi bỏ tỉnh Plei Ku Der. Toàn bộ đất đai của
tỉnh Plei Ku Der gồm hai tòa đại lý hành chính Kon Tum và Cheo Reo
được sáp nhập trở lại hai tỉnh Bình Định và Phú Yên như trước đó.
Ngày 9-2-1913, thực dân Pháp chính thức thành lập
tỉnh Kon Tum, bao gồm đại lý hành chính Kon Tum tách ra từ Bình Định,
đại lý hành chính Cheo Reo tách ra từ Phú Yên, đại lý hành chính
Buôn Ma Thuột (Buôn Ma Thuột trước đó là một tỉnh riêng, nhưng đến năm
1913 giảm từ tỉnh xuống thành đại lý hành chính, sáp nhập vào tỉnh
Kon Tum).
Năm 1917, thực dân
Pháp thành lập tòa đại lý hành chính An Khê, gồm huyện Tân An và khu
vực người dân tộc thiểu số đặt dưới quyền cai trị của công sứ tỉnh
Kon Tum.
Ngày 2-7-1923, đại lý Buôn Ma Thuột được tách khỏi tỉnh
Kon Tum để thành lập tỉnh Đắk Lắk.
Ngày 3-12-1929, thành lập thành phố Kon Tum (thực tế lúc
đó chỉ là thị trấn, gồm tổng Tân Hương và một số làng dân tộc
thiểu số phụ cận).
Ngày 25-5-1932, tách đại lý Pleiku ra khỏi tỉnh Kon Tum,
thành lập tỉnh Pleiku (nay thuộc tỉnh Gia Lai).
Đến ngày 9-8-1943, đại lý hành chính An Khê được tách
khỏi tỉnh Kon Tum, sáp nhập vào tỉnh Pleiku. Tỉnh Kon Tum lúc bấy giờ
chỉ còn lại tổng Tân Hương và toàn bộ đất đai vùng đồng bào dân tộc
thiểu số.
Tổng Tân Hương là tên gọi tiền thân của thành phố Kon
Tum hiện nay. Tổng Tân Hương là nơi hội tụ của các làng người Kinh lên
lập nghiệp tại Kon Tum. Theo thứ tự, các làng của tổng Tân Hương được
thành lập theo thời gian và tên gọi như sau: Tân Hương (năm 1874); Phương
Nghĩa (năm 1882); Phương Quý (năm 1887); Phương Hòa (năm 1892); Trung Lương
(năm 1914); Phụng Sơn (năm 1924); Ngô Thạnh (năm 1925); Ngô Trang (năm 1925);
Phước Cần (năm 1927); Lương Khế (năm1927).
Ngày 3-2-1929, theo nghị định
của Khâm sứ Trung Kỳ, tổng Tân Hương được lập thành thị trấn Kon Tum,
từ đó thị trấn Kon Tum trở thành trung tâm chính trị - kinh tế - xã
hội của tỉnh Kon Tum. Theo thời gian, mảnh đất nơi đây không ngừng được
mở rộng và phát triển. Ngoài các làng của người Kinh lập nên, về
sau có thêm nhiều làng của người dân tộc thiểu số vùng ven như các
làng Kon Rbàng, KonM'nai, ChưHreng, cũng nằm trong phạm vi quản lý hành
chính của thị trấn Kon Tum.
Tháng 8-1945, cùng với cả nước, ngày 25-8-1945, nhân dân Kon Tum đã nổi dậy giành chính quyền.
Chính quyền cách mạng tổ chức lại tỉnh Kon Tum
thành 4 đơn vị hành chính gồm các huyện Đăk Glei, Đăk Tô, Konplong và
thành phố Kon Tum. Chính quyền cách mạng lâm thời tỉnh Kon
Tum được thành lập đóng trụ sở tại thành phố Kon Tum để lãnh đạo
nhân dân bắt tay vào xây dựng cuộc sống mới.
Ngày 26-6-1946, thực dân Pháp tấn công và chiếm lại Kon
Tum, thiết lập trở lại bộ máy cai trị vùng này. So với trước Cách
mạng Tháng Tám năm 1945, bộ máy thống trị và chính sách cai trị của
Pháp từ tỉnh tới làng không mấy thay đổi. Đứng đầu bộ máy hành
chính cấp tỉnh là một công sứ người Pháp, bên dưới có các huyện
thường do tên đồn trưởng người Pháp nắm giữ rồi đến làng. Thực dân
Pháp đã tập hợp bọn tay sai người địa phương, đặc biệt là dụ dỗ,
mua chuộc, lôi kéo các chủ làng để nắm giữ bộ máy quyền lực ở cơ
sở.
Về phía cách mạng, sau khi thực dân Pháp tái chiếm Kon
Tum, chính quyền cách mạng lâm thời tan rã, tổ chức Đảng bị phân
tán, thất lạc. Trong thời gian này, tỉnh Kon Tum chịu sự quản lý chỉ
đạo về hành chính của xứ ủy Trung Kỳ và Phân ban vận động quốc dân
thiểu số Nam Trung Bộ.
Tháng 1-1947, thành lập Phân khu 15, trong đó nòng cốt là
tỉnh Kon Tum và các huyện miền Tây của hai tỉnh Quảng Nam và Quảng
Ngãi. Trên thực tế, tổ chức hành chính của Kon Tum vẫn giữ nguyên,
nhưng chịu sự quản lý và chi phối của Phân khu 15 về hoạt động quân
sự.
Tháng 8-1947, Khu 15 Tây Nguyên được thành lập, tỉnh Kon Tum
là một trong những đơn vị hành chính trực thuộc Khu 15.
Tháng 3-1950, theo chủ trương của Liên Khu ủy V, tỉnh
Kon Tum và tỉnh Gia Lai được sáp nhập thành tỉnh Gia - Kon. Ban cán sự
Gia - Kon ra quyết định thành lập 7 khu (huyện). Địa bàn tỉnh Kon Tum
tổ chức thành 3 khu: khu 1 (Đăk Glei); khu 2 (Đăk Tô); khu 3 (Konplong).
Tháng 10-1951, theo quyết định của Liên Khu uỷ V, tỉnh Kon
Tum và các huyện phía tây Quảng Ngãi hợp nhất thành Mặt trận miền
Tây.
Tháng 2-1954, Kon Tum là tỉnh đầu tiên và
duy nhất ở Tây Nguyên được hoàn toàn giải phóng. Một thời gian sau, Mặt
trận miền Tây cũng được giải thể. Theo tinh thần Hiệp định Giơnevơ ký
ngày 20-7-1954, tỉnh Kon Tum bước vào thời kỳ lịch sử mới.
Về phía địch, sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, Mỹ -
Ngụy tiếp quản Kon Tum.
Năm 1958, chúng chia bộ máy hành chính tỉnh Kon
Tum thành tòa hành chính Kon Tum - bộ máy hành chính cấp tỉnh, bên
dưới gồm các quận Kon Tum, Đăk Tô, Konplong và Đăk Sút.
Năm 1958, nguỵ quyền thành
lập quận Toumơrông.
Năm 1959, nguỵ quyền thành lập thêm quận
Chương Nghĩa.
Năm 1960, quận Konplong bị xóa bỏ. Như vậy, thực tế quận
Toumơrông và quận Chương Nghĩa chiếm gần trọn diện tích của quận
Konplong trước đó. Một phần đất còn lại của quận Konplong không thuộc
phạm vi của hai quận mới này được sáp nhập về quận Kon Tum.
Năm 1961, quận Chương Nghĩa bao gồm phần đất phía
đông sông Đăk Nghé, giáp với Ba Tơ (Quảng Ngãi) được cắt về tỉnh
Quảng Ngãi. Tỉnh Kon Tum còn lại 4 đơn vị hành
chính cấp quận: Kon Tum, Đăk Tô, Đăk Sút, Toumơrông.
Sau năm 1965, phân cấp hành chính của Nguỵ quyền Sài Gòn
tại Kon Tum có sự thay đổi. Đối với khu vực thị xã, thị trấn đông
dân, chúng vẫn giữ nguyên cấp quận; những nơi xa xôi, ít dân cư hơn,
chúng giảm quận đặt thành phái viên hành chính.
Năm 1970, bộ máy hành chính của địch ngoài tòa hành
chính và các ty, sở ở tỉnh, bên dưới có các cấp sau: quận Kon Tum,
quận Đăk Tô, phái viên hành chính Đăk Sút, phái viên hành chính Măng
Buk, phái viên hành chính Chương Nghĩa (quận Chương Nghĩa chuyển về
Quảng Ngãi một thời gian sau đó được nhập trở lại tỉnh Kon Tum).
Năm 1972, nguỵ quyền cải danh chi khu Đăk Pét thành quận Đăk
Sút để mở rộng chức năng về hành chính.
Sau chiến dịch xuân - hè năm 1972, quân
cách mạng giải phóng Đăk Tô - Tân Cảnh và đại bộ phận các vùng nông thôn,
vùng kiểm soát của địch bị thu hẹp đáng kể; quận
lỵ Đăk Tô của địch phải lưu vong về đèo Sao Mai (đông nam thành
phố Kon Tum); các chi khu Đăk Pét, Măng Đen, Măng Buk bị cô lập
giữa vùng giải phóng của ta. Địch chỉ còn co cụm phần lớn tại khu
vực thành phố Kon Tum.
Năm 1974, quân ta tấn công tiêu diệt hoàn toàn các chi khu
Đăk Pét, Măng Đen, Măng Buk. Tận dụng thời cơ thắng lớn ở Buôn Ma
Thuột, ngày 17-3-1975, quân và dân trong tỉnh đã
nổi dậy tấn công vào đầu não của địch ở nội thị, giải phóng
thành phố và toàn tỉnh Kon Tum.
Về phía ta, đầu năm 1955, toàn tỉnh đuợc
chia thành 6 khu nông thôn (tương đương huyện) và một thành phố.
Khu 1: lúc đầu là vùng đông và bắc thành phố Kon Tum,
từ bờ sông Pô Kô (phía tây) đến bờ sông Đăk Nghé (phía đông).
Khu 2: bao gồm toàn huyện Konplong ngày nay.
Khu 3: gồm một số vùng thuộc huyện Đăk Glei và một số
vùng của Đăk Tô (nay thuộc huyện Đăk Hà) giáp với khu 6 và giáp với
huyện Konplong ngày nay.
Khu 4: vùng tây huyện Đăk Glei từ giáp Quảng Nam đến Đăk Nây
Pui, phía tây giáp biên giới Lào.
Khu 5: được hình thành và giải thể trước khi có hiệp
định Giơnevơ nên không còn. Một phần khu 5 nhập vào khu 4, phần còn
lại nhập vào khu 6.
Khu 6: từ Vơmơna, phía đông giáp Măng Buk đến vùng Kayong
giáp biên giới Lào, phía bắc giáp vùng Đăk Hà, phía nam đến Konplong.
Khu 7: thuộc huyện Sa Thầy ngày nay.
Cuối năm 1956, đầu năm 1957, các khu vực được sắp xếp lại
và chuyển đổi thành huyện: cắt một phần khu 3 giáp khu 6 thành khu 8;
cắt một phần nam khu 2 thành khu 9; giải thể khu 6. Hình thành nên các
huyện: khu 1 và một phần khu 6 sáp nhập thành huyện H16; khu 2 và khu
9 sáp nhập thành huyện H29; khu 3 chuyển thành huyện H30; khu 8 và một
phần khu 6 sáp nhập thành huyện H80; khu 4 thành huyện H40; khu 7 và
một phần khu 6 sáp nhập thành huyện H67.
Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, các huyện
trong tỉnh Kon Tum đều được gọi theo tên mật danh như: H16, H29, H30, H40,
H67, H80. Riêng thành phố Kon Tum lúc đó mang mật danh là H5. Vùng KonHring (nay thuộc huyện Đăk Hà) mang mật danh
H9.
ứng với mỗi mật danh có tên gọi cụ thể là: H16
(Konpraih); H29 (Konplong); H80 (Đăk Tô); H5 (thành phố Kon Tum); H30
(phía đông Đăk Glei); H40 (phía tây Đăk Glei); H67 (Sa Thầy); H9 (Kon
Hring).
Sau khi tỉnh Kon Tum được giải phóng
(17-3-1975), toàn tỉnh có thành phố Kon Tum và 6 huyện là H30, H40,
H16, H29, H80, H67.
Tháng 10-1975, tỉnh Kon Tum sáp nhập với tỉnh Gia Lai thành
tỉnh Gia Lai - Kon Tum, trên địa bàn tỉnh có các huyện: huyện Konplong
(H16 + H29), huyện Đăk Glei (H30 + H40), thành phố Kon Tum (H5 + H9),
huyện Đăk Tô (H80). Năm 1979, thành lập huyện Sa Thầy trên cơ sở phần
đất của H67 cũ.
Tháng 10-1991, tỉnh Kon Tum được tái lập trên cơ sở chia tách tỉnh
Gia Lai - Kon Tum. Theo đó, một số huyện mới được thành lập như Ngọc Hồi (năm 1992); Đăk
Hà (năm 1994), huyện Kon Rẫy (năm 2002),
huyện Tu Mơ Rông (năm 2005).
Đến năm 2005, tỉnh Kon Tum có 01 thành phố và 8
huyện. Trong đó, thành phố Kon Tum là trung tâm chính trị, kinh tế,
văn hóa - xã hội của tỉnh.
Người đăng: ĐTN
Nguồn tin: kontum.gov.vn
Nguồn tin: kontum.gov.vn
Theo. http://bac79.com
Cơ sở Thiên Chúa Giáo được đặt đầu tiên tại Kontum không phải do thực dân Pháp, nhưng chính là những nhà truyền giáo của hội Thừa Sai Pari từ năm 1848.Chúng ta là những người hậu sanh, phải cẩn thận để hiểu đúng lịch sử, không được quy chụp, đồng hóa mà có lỗi với lịch sử.
Trả lờiXóaday su that lich su do ban
Xóa