TRẦN TRỌNG KIM
Trần Trọng Kim (chữ Hán: 陳仲金; 1883 – 1953) là một học giả danh tiếng, thủ tướng của Đế quốc Việt Nam (1945) và đầu tiên của Việt Nam, tác giả của Việt Nam Sử Lược.
Tiểu sử
Trần Trọng Kim, nhà giáo dục, nhà biên khảo văn học và sử học Việt Nam, bút hiệu Lệ thần, sinh năm 1883 (Quý Mùi) tại làng Kiều Linh, xã Đan Phố, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Xuất thân trong một gia đình Nho giáo, ông học chữ Hán từ nhỏ. Năm 1897, ông học Trường Pháp-Việt Nam Định, học chữ Pháp. Năm 1900, ông thi đỗ vào Trường thông ngôn và đến 1903 thì tốt nghiệp. Năm 1904, ông làm Thông sự ở Ninh Bình. Năm 1905, ông qua Pháp học trường Thương mại ở Lyon, sau được học bổng vào trường Thuộc địa Pháp. Năm 1909, ông vào học trường Sư phạm Melun và tốt nghiệp ngày 31 tháng 7 năm 1911 rồi về nước. Ông lần lượt dạy Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi), Trường Hậu bổ và Trường nam Sư phạm.
Ông giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như: Thanh tra Tiểu học (1921), Trưởng ban Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924), dạy Trường Sư phạm thực hành 1931, giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1939).
Trần Trọng Kim còn là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí tiến
đức và Nghị viên Hội đồng Dân biểu Bắc Kỳ. Một năm sau khi ông về hưu (1943), Nhật Bản kéo vào Đông Dương và bí mật đưa ông cùng Dương Bá Trạc ra nước ngoài. 1945, ông được đưa về nước. Từ thập niên 1910 đến thập niên 1940, ông cũng viết nhiều sách về sư phạm và lịch sử.
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, độc chiếm thuộc địa Đông Dương. Để tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam. Ngày 11 tháng 3 năm 1945, triều đình Huế tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam. Trần Trọng Kim được giao thành lập nội các vào ngày 17 tháng 4 năm 1945. Đây là chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam độc lập và Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của Việt Nam.
Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam; đặt quốc thiều là bài "Đăng đàn cung"; quốc kỳ có "nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm".
Chính phủ
Trần Trọng Kim thực chất vẫn nằm dưới sự bảo hộ của quân đội Nhật chiếm
đóng Đông Dương, vì vậy có nhiều người cho rằng đây chỉ là một chính
phủ bù nhìn thân Nhật và không có được sự ủng hộ của dân chúng. Khi quân
Nhật đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim cũng chỉ tồn tại được đến ngày 23 tháng 8
năm 1945 thì sụp đổ. Tuy nhiên, trong thời gian ngắn ngủi, chính phủ
này cũng đã làm được một việc quan trọng là thống nhất về mặt danh nghĩa
đất Nam Kỳ vào đất nước Việt Nam; và thay chương trình học bằng tiếng
Pháp sang chương trình học bằng tiếng Việt, do học giả Hoàng Xuân Hãn biên soạn. Bộ trưởng Bộ thanh niên Phan Anh
đã thành lập đoàn Thanh niên Tiền tuyến, Thanh niên Xã hội. Trường
Thanh niên tiền tuyến đã đào tạo ra nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau này.
Sau khi Việt Minh giành được chính quyền và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, Trần Trọng Kim lưu vong ra nước ngoài. Sau nhiều năm tháng long đong ở Quảng Châu và Hồng Kông, ngày 6 tháng 2 năm 1947, ông trở về Sài Gòn và sống tại nhà luật sư Trịnh Đình Thảo. Năm 1948, ông qua Phnom Penh và sống với người con gái. Sau đó, ông lại trở về Việt Nam sống thầm lặng và mất tại Đà Lạt vào ngày 2 tháng 12 năm 1953, thọ 71 tuổi.
Trần Trọng Kim được đánh giá là một học giả uyên thâm cả tân và cựu học, là người tận tụy cho ngành giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ 20.
Tuy nhiên, ông là người có tư tưởng bảo thủ và dân tộc - bảo hoàng. Tác
phẩm Việt Nam sử lược được đánh giá là một trong những quyển sử Việt
Nam có phong cách ngắn gọn, súc tích và dễ hiểu, được tái bản nhiều lần.
Tác phẩm
Trước năm 1945, Trần Trọng Kim có nhiều tác phẩm nổi tiếng thời bấy giờ về các lĩnh vực sử học, nghiên cứu và sư phạm gồm:
- Sơ học luân lý\ (1914),
- Vương Dương Minh (1914),
- Luân lý giáo khoa thư (1916)
- Sư phạm khoa yếu lược (1916),
- Việt Nam sử lược (1919),
- Truyện Thúy Kiều chú giải (1925)
- Nho giáo (1930),
- Phật Lục (1940),
- Quốc văn giáo khoa thư, 3 tập: lớp Đồng ấu, Dự bị, và Sơ đẳng (soạn cùng Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận; Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ vẽ)
- Việt Nam văn phạm (cùng Bùi Kỷ, Nguyễn Mạnh Tường) (1941).
Sau năm 1945, ông viết hồi ký:
- Một cơn gió bụi (1949)
NGUYỄN VĂN THIỆU
Nguyễn Văn Thiệu (5 tháng 4 năm 1923 – 29 tháng 9 năm 2001) là Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa thời kỳ 1965-1967 và Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa thời kỳ 1967-1975.
Tiểu sử
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu quan sát bản đồ Đông Á
Thân thế
Nguyễn Văn Thiệu sinh ngày 5 tháng 4 năm 1923, tại làng Tri Thủy, xã Tân Hải, huyện Thanh Hải, tỉnh Ninh Thuận. Ông có hai người anh: Nguyễn Văn Hiếu và Nguyễn Văn Kiểu. Nguyễn Văn Hiếu thời Đệ nhị Cộng hòa được bổ làm đại sứ ở Ý còn Nguyễn Văn Kiểu làm đại sứ ở Đài Loan.[1]
Gia nhập quân đội
Sau khi tốt nghiệp lớp 9, ông Thiệu lên Sài Gòn để học nghề. Tuy nhiên, không lâu sau, ông đăng ký vào khóa đầu trường Sĩ quan quân đội Việt Nam, sau trở thành trường Võ bị Đà Lạt. Năm 1949, ông tốt nghiệp với quân hàm Thiếu úy, tham gia binh nghiệp trong lực lượng người Việt trong quân đội Liên hiệp Pháp.
Sau khi Pháp rút khỏi Việt Nam, năm 1955 ông gia nhập Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, với quân hàm Trung tá, giữ chức Chỉ huy trưởng Trường Võ bị Đà Lạt. Đến năm 1962, ông giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 5 bộ binh, hàm Đại tá.
Tham gia đảo chánh, chấp chính quốc trưởng
Năm 1963, ông tham gia lực lượng đảo chính lật đổ chính quyền Ngô Đình Diệm. Sau đảo chính, ông được phong hàm Thiếu tướng. Khi tướng Nguyễn Khánh thực hiện "chỉnh lý", nắm quyền lãnh đạo chính quyền, ông được cử giữ chức Tham mưu trưởng sau đó được cử giữ chức Tổng trưởng Quốc phòng. Năm 1965, ông được thăng Trung tướng. Cũng năm này, chính phủ của Thủ tướng Phan Huy Quát đã giải tán và trao quyền lãnh đạo quốc gia lại cho Hội đồng Quân lực. Hội đồng tướng lĩnh đã bầu ông giữ chức Chủ tịch Ủy ban Lãnh đạo Quốc gia và tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch Ủy ban Hành pháp Trung ương. Ông trở thành quốc trưởng và tướng Kỳ trở thành thủ tướng của chính phủ mới.
Thành lập Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong ngày nhậm chức nền đệ nhị cộng hoà 1967 (giữa)
Năm 1967, Nguyễn Văn Thiệu được bầu làm tổng thống, mở ra nền Đệ nhị Cộng hòa Việt Nam, với 38% số phiếu. Ông giữ chức này cho đến khi chính thể Đệ nhị Cộng hòa sắp sụp đổ vào cuối Tháng Tư năm 1975 (Xem Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975). Thời kỳ này chính phủ Việt Nam Cộng Hòa càng lệ thuộc vào sự giúp đỡ của Hoa Kỳ nhiều hơn cả chính phủ tiền nhiệm của Ngô Đình Diệm. Ông Thiệu là người sáng lập đảng Dân chủ (Việt Nam). Ông đã tập trung quyền lực vào ngành hành pháp trong khi làm suy yếu quyền của ngành lập pháp (quốc hội).
Năm 1969, Tổng thống Thiệu kêu gọi hòa bình bằng cách đề nghị bầu cử bao gồm cả lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam nhưng phó Tổng thống Kỳ đã cảnh báo rằng bất kỳ nỗ lực nào để Liên minh với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đều rất nguy hiểm. [2]
Cũng trong năm này, Nguyễn Văn Thiệu đã vượt quyền hiến pháp, cụ thể là
điều luật quy định sự bất khả xâm phạm của dân biểu, để bắt giữ và mở tòa án quân sự kết án dân biểu Trần Ngọc Châu
10 năm khổ sai, sau khi vị dân biểu này đề nghị lập một đoàn gồm các
nhà lập pháp Việt Nam Cộng hòa ra Bắc để đàm phán với Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.[3]Năm
1971, Việt Nam Cộng hòa tổ chức bầu cử tổng thống. Sau cố gắng bất
thành của Nguyễn Văn Thiệu trước kia nhằm gạt hẳn Nguyễn Cao Kỳ ra khỏi
cuộc đua, trong kỳ này Dương Văn Minh rút lui không tham gia tranh cử và
Nguyễn Cao Kỳ cũng từ chối ra tranh cử nên cuộc bầu cử chỉ có một ứng
cử viên. Huy hiệu nhậm chức nhiệm kỳ 71-75
Kết quả là Nguyễn Văn Thiệu đạt được 94% số phiếu.[4]
Năm 1973, sau khi ký kết Hiệp định Paris,
Mỹ triệt thoái hoàn toàn quân đội ra khỏi miền Nam. Một thời gian ngắn
sau đó Hoa Kỳ cũng cắt giảm hầu hết các kinh phí viện trợ cho chính
quyền Việt Nam Cộng Hòa khiến khả năng quân sự của chính quyền bị suy
giảm nặng. Tháng 3 năm 1975, sau khi Ban Mê Thuột (nay gọi là Buôn Ma Thuột)
bị quân đội chính qui miền bắc đánh chiếm và quân đội miền nam phản
kích thất bại, Nguyễn Văn Thiệu tỏ ra lúng túng rồi quyết định rút bỏ Cao nguyên Trung phần.
Sai lầm chiến lược đó đã đưa đến những cuộc tháo chạy hỗn loạn khỏi các
tỉnh Tây Nguyên và bị Quân giải phóng miền Nam tấn công gây thiệt hại
nặng. Sau đó các tỉnh duyên hải miền Trung cũng thất thủ.
Khi các lực lượng quân sự của Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam sắp giành được chiến thắng, ông từ chức vào ngày 21 tháng 4 năm 1975, 9 ngày trước khi Việt Nam Cộng hòa đầu hàng vô điều kiện. Phó tổng thống Trần Văn Hương lên thay làm tổng thống.
Lưu vong
Đêm 25 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam với tư cách là đặc sứ của Việt Nam Cộng hòa đến Đài Bắc để phúng điếu Tưởng Giới Thạch.
Khi ông rời bỏ đất nước ra đi, khắp Sài Gòn ,từ dân chúng đến giới báo
chí lúc đó xôn xao tin đồn rằng Nguyễn Văn Thiệu đã đem theo 16 tấn vàng trong ngân khố quốc gia ra nước ngoài. Sau đó, ông đến Anh định cư. Ông sống một cuộc sống thầm lặng trong quãng đời còn lại và qua đời vào ngày 29 tháng 9 năm 2001 tại Boston, Massachusetts, Hoa Kỳ.
Nguyễn Văn Thiệu và Hiệp định Paris
Ông chính là người phản đối quyết liệt nhất việc ký kết Hiệp định Paris vào lúc đó, vì theo ông việc đó sẽ làm cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có được lợi thế đáng kể so với Việt Nam Cộng hòa.
Cụ thể là người Mỹ sẽ chấm dứt những cam kết và ủng hộ của mình đối với
Việt Nam Cộng hòa, đồng nghĩa với việc viện trợ cho chính phủ của ông
bị cắt giảm và ưu thế quân sự sẽ nghiêng về phía Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Nguyễn Văn Thiệu đã cố tình trì hoãn việc đồng ý ký kết hiệp định,
nhưng phía Mỹ đã có quyết định dứt khoát về việc này và gây áp lực cho
chính phủ của ông, trong thư của Tổng thống Nixon gửi ông vào ngày 16
tháng 1 có đoạn: "Tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt hiệp định vào
ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói trên
một mình. Trong trường hợp đó tôi phải giải thích công khai rằng chính
phủ của ông cản trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi
và lập tức viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự thay đổi
nhân sự trong chính phủ của ông khó mà nói trước". Kết quả là Nguyễn Văn
Thiệu chấp nhận ký kết hiệp định một cách miễn cưỡng, mặc dù đã được
phía Mỹ cam kết sẽ đảm bảo sự tồn tại của Việt Nam Cộng hòa.
Nhận xét
Nguyễn
Văn Thiệu có ý kiến chống đối với chính phủ Mỹ về văn bản chính thức
của Hiệp định Paris, thực tế sau này cho thấy nhận thức của ông về sự
thất bại có thể xảy ra cho miền Nam nếu chấp nhận văn bản đó là đúng
đắn. (Cuối cùng, dưới áp lực của Mỹ, chính phủ của Việt Nam Cộng hòa đã
bị buộc kí vào hiệp định Paris). Ông là vị nguyên thủ quốc gia có thái
độ cứng rắn với Cộng sản với Lập trường bốn không:
không chấp nhận, không thương lượng, không liên hiệp và không nhượng
đất cho Cộng sản. Ông bị nhiều tai tiếng như vụ 16 tấn vàng và khả năng
lãnh đạo quân sự .
Trong
những năm tại vị, Ngày 26 tháng 3 năm 1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
đã ký tại Cần Thơ lệnh số 003/60 ban hành luật "Người Cày Có Ruộng". Ông
nói: "Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi".
Hình trên tem: Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong ngày nông dân Việt Nam
Báo chí Hoa Kỳ hết lời ca ngợi, tờ Washington Evening Star
gọi đó là "Tin tức tốt đẹp nhất đến từ Việt Nam kể từ khi kết thúc sự
chiếm đóng của người Nhật". . Còn tờ New York Times cho rằng "Có lẽ đây
là cuộc cải cách ruộng đất không cộng sản mang nhiều tham vọng và tiến
bộ nhất của thể kỷ 20".Theo ông Nguyễn Tiến Hưng trong sách Khi đồng minh tháo chạy:
"Nhiều quan sát viên quốc tế đã cho chương trình "Người Cày Có Ruộng"
là một trong những chương trình cải cách điền địa thành công nhất ở các
nước hậu tiến. Nó là điểm vàng son của nền Đệ nhị Cộng hòa". Chương
trình này đã tạo ra một tầng lớp tiểu nông đông đảo, thúc đẩy kinh tế
hàng hóa trong nông nghiệp phát triển. Nông dân hăng hái sản xuất và
năng suất lao động trong sản xuất lúa gạo tăng lên nhanh chóng. Đời sống
của nông dân được cải thiện.
Đánh giá của người trong cuộc
Tướng Cao Văn Viên, trong một cuộc phỏng vấn lúc cuối đời, đã có một số nhận xét về Nguyễn Văn Thiệu cũng như so sánh giữa Nguyễn Văn Thiệu và Ngô Đình Diệm
"Mỗi người độc tài theo cách
riêng. TT Diệm cai trị nước như một quan lại của thời quân chủ, ông bẩm
sinh chống cộng, tự ban cho mình “thiên mạng” cứu nước. ”
TT Diệm tự hào về dân tộc, tự
đại về gia đình, thích độc thoại, không chấp nhận dễ dàng sự chỉ trích.
Ông chủ trương “tiết trực tâm hư ” nhưng bị ảnh hưởng nặng của gia đình.
Còn ông Thiệu thì theo đường lối “độc tài trong dân chủ”, bên trong chi
phối cả hai ngành lập pháp và tư pháp. Bàn tay sắt trong đôi găng
nhung.
Vì không vững kiến thức như ông
Diệm, ông Thiệu chịu khó thăm dò ý kiến của các chuyên viên, lắng nghe,
đúc kết lại để quyết định một mình. TT Diệm dễ tin người xu nịnh nên dễ
bị phản trắc. Ông Thiệu đa nghi Tào Tháo và không e ngại ban phát ân
huệ để tạo phe cánh và chia rẽ đối phương như ông đã làm tại Quốc hội.
Ông chủ trương “làm chính trị phải lì”. Bởi thế TT Thiệu “lật” ông Kỳ không khó và tồn tại lâu hơn TT Diệm nhưng ông không khí khái bằng ông Diệm. Ông Thiệu mưu sĩ, ông Diệm đạo đức.
Câu nói nổi tiếng
- Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm!
- Ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản - Biếm chỉ Cộng sản nằm vùng khủng bố miền Nam Việt Nam trước năm 1975
- Công đức ngàn đời con tố mẹ, tình nghĩa trăm năm vợ tố chồng - Biếm chỉ chính sách đấu tố của Cộng sản
- Đất nước còn, còn tất cả; cộng sản thắng, mất tất cả.
- Đất nước còn ta không còn cũng được, đất nước không còn ta có cũng như không - Động viên thanh niên tham gia quân lực.
- Tôi mà tham nhũng thì cái chính phủ này sẽ sụp đổ chỉ trong 3 ngày!
- Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau 3 giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập![cần dẫn nguồn]
- Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó.
- Sống không có tự do là đã chết.
- Mỹ còn viện trợ, thì chúng ta còn chống Cộng.[cần dẫn nguồn]
Giai thoại 16 tấn vàng
Trước và sau năm 1975 báo chí loan tin tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước khi ra đi đã mang theo 16 tấn vàng
là tài sản quốc gia. Giai thoại này lan truyền rất rộng rãi nhưng không
có xác nhận hay phủ nhận chính thức của chính quyền. Đến năm 2006, báo
Tuổi trẻ đã thực hiện một loạt phóng sự điều tra xác nhận rằng toàn bộ
số vàng (1234 thỏi) và tiền mặt (hơn 1000 tỷ đồng) đã được bàn giao cho
Ban Quân quản "khớp với sổ sách từng chi tiết nhỏ" [5], như vậy ông Thiệu không có đem vàng của quốc gia đi.
Ông Lữ Minh Châu
nguyên Trưởng ban Quân quản các ngân hàng Sài Gòn - Gia Định, là người
tổ chức tiếp quản toàn bộ tiền, vàng của chế độ Sài Gòn cũ cũng xác nhận
16 tấn vàng, tiền dự trữ và châu báu, nữ trang còn nguyên và được
chuyển vào tài sản quốc gia
Chiến tranh bien giới tây nam
. Chiến dịch phản công biên giới Tây - Nam là một loạt các chiến dịch quân sự do Việt Nam tiến hành nhằm trả đũa các hoạt động quân sự của quân Khmer Đỏ tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân và đốt phá làng mạc Việt Nam trong những năm 1975-1978.
Bối cảnh
Sau Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xẩy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978, nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi Sài Gòn thất thủ. Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc, sáu ngày sau quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu[4].
Tức giận vì hành vi gây hấn của Khmer Đỏ, Hà Nội phản công giành lại
các đảo này. Trận đánh ở Phú Quốc làm nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam mới thành lập lo ngại, vì cùng thời gian đó, quan hệ Việt Nam
và Trung Quốc đang xấu đi. Mối lo ngại này càng tăng thêm vì sự hiện diện của cố vấn Trung Quốc ở Campuchia và Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho lực lượng vũ trang Khmer Đỏ
Tiếp theo
cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, bên cạnh nhiều cuộc đột
kích nhỏ, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập qui mô lớn vào Việt Nam.
Cuộc tấn công lớn đầu tiên diễn ra vào tháng 4 năm 1977, quân chính qui
Khmer Đỏ tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang
và tàn sát một số lớn dân thường. Cuộc tấn công thứ hai diễn ra vào
ngày 25 tháng 9 cùng năm, lần này 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm
nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh),
đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất
tích. Để trả đũa, ngày 31 tháng 12 năm 1977, sáu sư đoàn Quân đội Nhân dân Việt Nam đánh vào sâu trong đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1 năm 1978, mang theo một số nhân vật quan trọng bên phía Campuchia, trong đó có cả Thủ tướng tương lai Hun Sen.
Cuộc tấn công này được xem là lời "cảnh cáo" cho Khmer Đỏ. Phía Việt
Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự
dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối, và giao tranh tiếp diễn.
Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot
họp bàn chủ trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn.
Trong nghị quyết của họ có ghi: "Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi
tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến
20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu
diệt 50 triệu[7] người Việt Nam"[8].
Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa
phương liên tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới
15-20 km. Trong các đợt tấn công đó, Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát đối
với người Việt Nam, một ví dụ là vụ thảm sát Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân thường bị giết hại.
Từ tháng
12 năm 1977 đến 14 tháng 6 năm 1978, theo số liệu không chính thức từ
một nhà nghiên cứu hải ngoại, phía Việt Nam bị thương vong 30.642 bộ
đội, trong đó số chết là 6902 người. Hơn 30 vạn người phải tản cư về
phía sau, bỏ hoang 6 vạn ha đất sản xuất. CÒn theo cuốn "Cuộc chiến
tranh bắt buộc" của một Đại tá QDNDVN,có thể ước lượng Việt Nam bị
thương vong 8.500 bộ đội, trong đó số chết là gần 3.000 người[9].
Ngày 13 tháng 12 năm 1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc,
Khmer Đỏ đã huy động 10 trong 19 sư đoàn (khoảng 50.000 đến 60.000
quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn
đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Trà Tiến (Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.
Quân đội
Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời
tiêu hao sinh lực của quân Khmer đỏ. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ bị
chặn lại và không thể phát triển được. Ngoại trừ Hà Tiên
bị chiếm giữ trong thời gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị
chiếm. Theo thống kê từ Việt Nam, từ tháng 6-1977 đến tháng 12-1978, họ
đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer đỏ, bắt sống 5.800 lính khác[10].
Lực lượng hai bên
Việt Nam[11]
- Quân đoàn 2 của thượng tướng Nguyễn Hữu An, chính ủy Lê Linh, gồm các Sư đoàn 304, 325, được bổ sung Trung đoàn bộ binh 8, cũng từ Tịnh Biên (An Giang - Hà Tiên) đánh theo hướng tây để hỗ trợ lực lượng Quân khu 9 đánh về Phnom Penh, chiếm Kampot và vùng duyên hải Đông Nam Campuchia. Sư đoàn 306 mới thành lập không kịp tham gia chiến dịch vì chưa hoàn thành công tác huấn luyện[12]. Cũng như tại mặt trận Tây Ninh, tại An Giang, quân Việt Nam cũng chia quân tấn công hai hướng. Hướng thứ nhất theo Quốc lộ 2 tiến về hướng Bắc đánh về Phnom Penh. Hướng thứ hai tiến theo duyên hải về hướng Tây đánh chiếm hải cảng Kompong Som, Sư đoàn 304 được dùng làm trừ bị, cố thể được dùng tăng cường trong trường hợp Quân đoàn 4 tấn công Phnom Penh gặp khó khăn.
- Quân đoàn 3 của tướng Kim Tuấn, gồm các Sư đoàn 10, 31, 320, được bổ sung Sư đoàn 302, đánh từ Tây Ninh, vượt qua tỉnh Kampong Cham đến sông Mê Kông và vùng lãnh thổ đông bắc Campuchia.
- Quân đoàn 4 của thượng tướng Hoàng Cầm, gồm các Sư đoàn 7, 9, 341, được bổ sung thêm Sư đoàn 2, cùng Lữ đoàn 22 thiết giáp, Lữ đoàn 24 pháo binh, Lữ đoàn 25 công binh và 3 tiểu đoàn Khmer thân Việt Nam (UFNSK), hướng tấn công từ hướng tây và tây nam Tây Ninh, sau khi đã tái chiếm những vị trị trên tỉnh lộ 13, theo đường 1 qua tỉnh Svay Rieng nhắm đánh bến phà chiến lược Neak Luong để đến Phnom Penh.
- Quân khu 5: gồm hai Sư đoàn 307, 309 và Lữ đoàn đặc công 198, đánh từ Pleiku theo đường 19 về hướng Tây để tiêu diệt quân Khmer Đỏ ở Đông Bắc Campuchia.
- Quân khu 7: gồm hai Sư đoàn 5, 302, 303, Trung đoàn đặc công 117, được tăng cường thêm một số đơn vị của Quân đoàn 3 như Lữ đoàn 12 thiết giáp, những trung đoàn chủ lực các tỉnh Tây Ninh, Long An, Sông Bé, Trung đoàn 262 pháo binh, Trung đoàn 26 thiết giáp, 3 tiểu đoàn Khmer UFNSK từ phía bắc tỉnh Tây Ninh và khu căn cứ của UFNSK quanh Snuol tiến quân dọc theo Quốc lộ 13 và Quốc lộ 7 đánh chiếm Kratié và Kampong Cham.
- Quân khu 9: gồm các Sư đoàn 4, 330, 339, tấn công từ khu vực Tịnh Biên ở hướng Bắc, qua tỉnh Ta Keo, hướng về Phnom Penh
- Lực lượng đổ bộ đường biển gồm Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 và Lữ đoàn hải quân đánh bộ 101 đổ bộ vào vùng duyên hải Đông Nam Campuchia để chiếm Ream và cảng Sihanoukville trên bán đảo Kampong Som.
- Đoàn 901 không quân: gồm Sư đoàn không quân 372 được trang bị máy bay F-5, A-37, máy bay trực thăng UH-1, máy bay vận tải C-130, C-119, C-47, và một phân đội MiG-21 từ Trung đoàn 921.
Các sư đoàn Việt Nam đều có các đơn vị cơ hữu thiết giáp, pháo binh, pháo phòng không và một lữ đoàn công binh.
Theo phía Việt Nam, có 10.000 - 15.000 quân UFNSK tham gia chiến dịch,
tuy nhiên theo các phân tích viên quốc tế, đây là con số phóng đại, chỉ
có chừng vài trăm quân UFNSK trực tiếp tham gia chiến dịch, còn lại đại
bộ phận làm công tác liên lạc, đảm bảo hậu cần, phiên dịch...
Campuchia
Theo
phía Việt Nam, lực lượng Khmer Đỏ gồm có 19 sư đoàn, theo tác giả
Steven Heder, quân Khmer Đỏ gồm chừng 15 sư đoàn. Các sư đoàn này được
trang bị tốt bằng vũ khí của Trung Quốc, được chỉ huy bởi các chỉ huy
dày dạn kinh nghiệm trong các cuộc chiến tranh vừa qua, gồm nhiều binh
lính trung thành đến cuồng tín, nhưng các sư đoàn này cũng đã bị nhiều
hao tổn trong những lần giao tranh trước, và quân số mỗi sư đoàn chỉ
chừng dưới 4.000 người, gần bằng nửa quân số của sư đoàn Việt Nam.
Các sư đoàn: 164, 170, 290, 310, 450, 703, 801, 902
- Một số máy bay chiến đấu T-28.
- Một phân đội MiG-19 do Trung Quốc sản xuất, số Mig-19 này không kịp tham chiến vì không có phi công và rơi vào tay quân Việt Nam khi họ chiếm Phnom Penh[14]
- Một sư đoàn thủy quân lục chiến
- Một sư đoàn hải quân
- Một sư đoàn không quân, nhưng chiến đấu như bộ binh khi giao tranh nổ ra.
- Nhiều đơn vị xe tăng và trọng pháo.
Chiến dịch phản công
Diễn biến chiến dịch
Tới đầu
tháng 12 năm 1978, quân đội Việt Nam được hỗ trợ bởi một số tiểu đoàn
Khmer thân Việt Nam đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới trong lãnh
thổ Campuchia, từ Mimot đến Snuol ở các tỉnh Kampong Cham và Kratié[15]. Ở phía Bắc, quân Việt Nam cũng kiểm soát một vùng rộng thuộc lãnh thổ Campuchia dọc theo đường 19[16].
Ngày 23 tháng 12 năm 1978, sau khi được tăng viện, với 80.000 quân,
quân đội Việt Nam đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi
quân Khmer Đỏ. Sư đoàn 2 cùng trung đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh mở cuộc
tấn công nhằm đánh bật các Trung đoàn 23 thuộc Sư đoàn 304 và Trung đoàn
13 thuộc Sư đoàn 221 của Campuchia ra khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ
13 sát biên giới. Tuy nhiên chiến cuộc chưa chấm dứt, quân đội Việt Nam
quyết định mở cuộc tấn công phòng ngừa vào Campuchia.
Đánh chiếm bờ đông sông Mekông
Chiến dịch biên giới Tây Nam 12/1978 - 1/1979
Sau khi
đánh tan sức kháng cự của quân Khmer Đỏ, các lực lượng Việt Nam thuộc
Quân khu 5 nhanh chóng hành tiến theo đường 19, sư đoàn 309 quét sạch tỉnh Ratanakiri, phía Bắc tỉnh Mondolkiri và tiến vào phía Bắc tỉnh Stung Treng. Sư đoàn 307 tiến theo đường 19, dùng cầu phao vượt sông Srepok và sông Mekong. Tới ngày 1 tháng 1 năm 1979, lực lượng Quân khu 5 tiến dọc sông Mekong chiếm được Stung Treng.
Cùng thời
gian, Sư đoàn 5 thuộc Quân khu 7 tiến từ hướng đông, cùng Sư đoàn 303
tiến theo hướng tây bắc từ Snuol cùng đánh vào Kratié do Sư đoàn 260 và 2
trung đoàn địa phương của đặc khu 505 phòng thủ. Các sư đoàn này gặp
phải sức kháng cự quyết liệt từ phía quân Khmer Đỏ. Trong cuộc tiến
quân, hai Tiểu đoàn 1 và 2 Trung đoàn 316 Sư đoàn 303 bị tập kích bất
ngờ nên bị tiêu diệt. Trung đoàn này, cũng như Trung đoàn 33, sau một
tháng hành quân, quân số hao hụt mất một nửa Các đơn vị quân Khmer Đỏ
tấn công Sư đoàn 303 gây nhiều tổn thất và suýt chiếm được sở chỉ huy sư
đoàn. Tuy nhiên, sau khi không chặn được quân Việt Nam, quân Khmer Đỏ
phải rút lui, và tới ngày 29 tháng 12, thành phố Kratié
rơi vào tay quân đội Việt Nam. Cùng lúc, Sư đoàn 302 tiến về phía Tây
đã chiếm được Kampong Cham. Sau đó, hai Sư đoàn 302 và 303 cùng quay lại
đánh chiếm thị xã Chhlong
do Sư đoàn 603 Khmer Đỏ chống giữ. Ngày 4 tháng 1, họ chiếm được
Chhlong. Kể từ lúc đó, toàn bộ lãnh thổ Campuchia ở phía đông sông
Mekong coi như bị mất.
Sáng ngày
31 tháng 12, được pháo binh bắn yểm trợ, xe tăng và bộ binh Quân đoàn 3
Việt Nam tiến công và nhanh chóng đánh tan 5 sư đoàn quân Khmer Đỏ trên
toàn tuyến phòng thủ dọc theo biên giới ở tỉnh Kampong Cham. Tới cuối
ngày, trừ sở chỉ huy quân Khmer Đỏ, toàn bộ các cứ điểm còn lại thất
thủ, quân Khmer Đỏ rút chạy về thị trấn Kampong Cham ở bờ tây sông
Mekong, bị quân Việt Nam truy kích ráo riết.
Không quân Việt Nam cũng tham chiến, tấn công vào tuyến phòng thủ của Khmer Đỏ và ném bom phá hủy một sân bay mà từ đó máy bay T-28
Khmer Đỏ xuất kích ném bom vào các toán quân tiền phương Việt Nam. Sáng
ngày 1 tháng 1 năm 1979, sau khi tập hợp lại lực lượng, Quân đoàn 3
đánh chiếm sở chỉ huy Khmer Đỏ sau một giờ giao chiến quyết liệt. Tướng
Kim Tuấn hạ lệnh cho các đơn vị dưới quyền truy quét và tiêu diệt các
lực lượng Khmer Đỏ còn sót lại. Tới ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 320 đã tiến
tới bờ đông của bến phà Kampong Cham bên bờ sông Mekong. Tại đây sư đoàn
dừng lại, rồi dùng 2 đại đội xe bọc thép mở đường, đánh về phía nam chiếm thủ phủ tỉnh Prey Veng.
Trong thời gian đó, ngày 28 tháng 12, ở hạ lưu đồng bằng sông Mekong,
lực lượng Khmer Đỏ thuộc Quân khu Đông Nam mở cuộc tấn công phòng ngừa
dọc biên giới. Quân Khmer Đỏ tiêu diệt một số đơn vị Quân khu 9 bảo vệ
biên giới và chiếm một vùng rộng lãnh thổ Việt Nam dọc theo kênh Vĩnh Tế. Cuộc tấn công này làm cho tình hình Quân đoàn 2 của tướng Nguyễn Hữu An
trở nên rất khó khăn. Quân Khmer Đỏ đã chiếm được khu vực đầu cầu mà
Quân đoàn 2 và lực lượng Quân khu 9 định dùng để tiến vào Campuchia,
đồng thời giành được một chiến lũy tự nhiên cản đường tiến của quân Việt
Nam.
Sau khi
nhận được sự chấp thuận từ Bộ chỉ huy, sáng ngày 31 tháng 12, sư đoàn 4
của Quân khu 9 và Trung đoàn 9 của Sư đoàn 304 phối thuộc mở cuộc phản
công. Sau 24 giờ giao tranh kịch liệt, quân Việt Nam đã đánh lui quân
Khmer Đỏ khỏi bờ tây kênh Vĩnh Tế.
Chiều ngày 1 tháng 1, được pháo binh và không quân yểm trợ, Lữ đoàn
công binh 219 thuộc Quân đoàn 2 bắc cầu phao vượt sông. Sư đoàn 304 và
Lữ đoàn xe bọc thép 203 mở đường tiến vào đất Campuchia. Tới trưa ngày 3
tháng 1, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đã tiêu diệt hoặc đánh tan tất cả
các lực lượng Khmer Đỏ ở hạ lưu sông Mekong dọc biên giới. Sở chỉ huy
Quân khu Tây Nam của Khmer Đỏ phải rút về Takéo.
Sau ba
ngày tấn công, tại hướng chủ yếu Tây Ninh, Quân đoàn 4 với sự yểm trợ
của không quân, trực thăng, pháo binh, hải quân, thiết giáp... quân Việt
Nam đánh bật được quân Khmer Đỏ khỏi các vị trí Năm Căn, Hòa Hội
dọc theo tỉnh lộ 13, và các đơn vị của các Sư đoàn 703, 340, 221 của
Khmer Đỏ phải rút về thành lập một tuyến phòng thủ mới tại Svay Rieng, tập trung ở cầu Don So.
Được 15 xe tăng và xe bọc thép mở đường, cùng với pháo 105mm, 155mm[18]
bắn yểm trợ, Sư đoàn 7 của Quân đoàn 4 mở cuộc tấn công vào quân Khmer
Đỏ ở Don So. Tuy nhiên sau hai ngày giao chiến với nhiều tổn thất, Sư
đoàn 7 vẫn chưa chọc thủng được tuyến phòng phủ của Khmer Đỏ. Tới đêm
ngày 1 tháng 1, tướng Hoàng Cầm hạ lệnh cho Sư đoàn 7 tung hết lực lượng
dự bị vào trận.
Quân
Khmer Đỏ kháng cự dữ dội, nhưng sau khi bị đánh thua ở Tây Ninh, quân
Khmer Đỏ đã bị mất tinh thần, hơn nữa, do phải chấp nhận một trận đánh
quy ước với một địch thủ có hoả lực, quân số và kinh nghiệm chiến trường
trội hơn quá nhiều, nên quân Khmer Đỏ bị tan rã. Tuyến phòng thủ Svay
Rieng bị vỡ ngày 2 tháng 1 năm 1979, quân Khmer Đỏ phải rút về Prey Veng và Neak Luong, chỉ để lại một số đơn vị đánh cầm chân Quân đoàn 4.
Tới ngày 2 tháng 1 năm 1979, quân đội Việt Nam đánh tan các sư đoàn chủ lực của Khmer Đỏ án ngữ các trục đường số 1, 7 và 2 ở lối vào Phnom Penh.
Chiều ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 7 chiếm được cầu Don So và tới ngày 4
tháng 1 đã làm chủ toàn bộ vùng phía đông sông Mekong. Tới ngày 5 tháng
1, Sư đoàn 7 tiến đến Neak Luong.
Đánh chiếm Phnom Penh
Ngày 6
tháng 1, các đơn vị Việt Nam vượt sông Mekong qua ngả Neak Luong và bắc
Kompong Cham. Chín sư đoàn quân Việt Nam làm thành hai gọng kìm tiến vào
Phnom Penh từ phía Đông Nam và phía Bắc: Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2 di
chuyển theo quốc lộ 1, Sư đoàn 9 tiến song song bảo vệ sườn phía nam và
Sư đoàn 341 bảo vệ sườn phía bắc. Một toán đặc công nhảy dù xuống Phnom Penh để giải cứu Hoàng thân Sihanouk, nhưng bị Khmer Đỏ phát hiện và tiêu diệt hết, chỉ duy nhất một người sống sót.
Tại
Kompong Cham, Quân đoàn 3 của tướng Kim Tuấn cũng giao tranh quyết liệt
với quân Khmer Đỏ để vượt sông. Quân Khmer Đỏ thiết lập trận địa phòng
ngự dọc bờ tây sông Mekong với nhiều ổ súng máy, súng cối
bắn trùm lên mặt sông để ngăn thuyền chở quân Việt Nam đổ bộ. Xa hơn
một chút, quân Khmer Đỏ bố trí xe tăng, xe bọc thép, pháo 105mm, 122mm
và 155mm để bắn vào quân Việt Nam đang tập trung ở bờ đông sông Mekong.
Đêm ngày 5 tháng 1, một toán quân gồm lính trinh sát, công binh và bộ
binh định vượt qua bờ sông chiếm một đầu cầu nhỏ, nhưng quân Khmer Đỏ
đánh bật họ lại. Tướng Kim Tuấn quyết định dùng hỏa lực áp đảo bắn vào
trận địa phòng thủ của quân Khmer Đỏ, rồi cho thả khói mù, dùng thuyền
chuyển quân sang bờ tây. Mặc dù rất nhiều thuyền bị trúng đạn của quân
Khmer Đỏ, Quân đoàn 3 cuối cùng cũng đã thiết lập được một đầu cầu. Một
đại đôi xe lội nước vượt sông và tỏa ra để đánh vào thị trấn; hai tiểu
đoàn bộ binh cũng vượt được sông, đến 8:30 sáng, Kampong Cham thất thủ.
Ngay
trong sáng ngày 6 tháng 1, lực lượng đột kích Phnom Penh, gồm Trung đoàn
28 của Sư đoàn 10 và các đơn vị phối thuộc, dẫn đầu bởi 6 xe lội nước và một số xe thiết giáp M-113
vượt sông, tổng cộng lực lượng lên đến 120 xe quân sự. Lực lượng đột
kích vừa hành quân vừa giao chiến với các ổ phục kích của quân Khmer Đỏ,
tới chiều tối đã tới bờ sông Tongle Sap và tổ chức đánh vượt sông để tiến vào Phnom Penh[19].
Trong khi
đó, ngày 6 tháng 1 năm 1979, những đơn vị đầu tiên của Sư đoàn 7 Quân
đoàn 4 được một tiểu đoàn UFNSK hỗ trợ chiếm được bờ phía đông của bến
phà Neak Luong. Quân Campuchia trong khi rút lui vội vã đã không kịp
thiết lập công sự phòng thủ. Trong đêm, cách bến phà khoảng hai cây số
về phía nam, Trung đoàn 113 cùng Trung đoàn 14 của Sư đoàn 7 được tàu đổ
bộ đưa sang bên kia sông, tiến chiếm bờ phía tây của bến phà. Ngày 7
tháng 1, toàn bộ đội hình Quân đoàn 4 tiến hành vượt sông. Do sự tan rã
nhanh chóng của lực lượng phòng thủ biên giới và sự chủ quan của Pol
Pot, quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh từ Neak Luong mà không gặp
sức chống cự đáng kể nào. Trưa ngày 4 tháng 1, Quân đoàn 4 đã có thể bắt
tay với Quân đoàn 3 ở ngoại ô phía bắc Phnom Pênh. Tuy nhiên Quân đoàn 3
đã đến muộn, không kịp chặn đường Chính phủ Polpot rút chạy khỏi Phnom
Penh.
Ngày 7 tháng 1, quân Việt Nam chiếm sân bay Kampong Chhnang và bắt được mười máy bay A-37, ba C-123K, sáu C-47, ba Alouette III cùng một số T-28. Ngày 8 tháng 1, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia do Heng Somrin làm chủ tịch đã được thành lập với sự hậu thuẫn của Việt Nam.
Ở phía Bắc, các sư đoàn của Quân đoàn 3 cũng tiến xuống Phnom Penh, sau đó Sư đoàn 320 theo quốc lộ 4 xuống bình định các tỉnh phía nam. Các sư đoàn còn lại theo các quốc lộ 5 và 6 tiến về hướng Tây và hướng Bắc. Họ gặp sức chống cự đáng kể của quân Khmer Đỏ tại Battambang và Siem Reap.
Hướng nam, Sihanoukville
Tại mặt trận phía nam, từ An Giang,
quân Việt Nam bắt đầu vượt biên giới vào ngày 3 tháng 1 năm 1979 và tấn
công theo hai hướng. Hướng thứ nhất, Sư đoàn 325 và Sư đoàn 8 tiến về
phía Tây, dọc theo quốc lộ số 2. Ngày 5 tháng 1 năm 1979, trong khi lực
lượng Quân khu 9 tiến đánh Takéo, sư đoàn 325 bắt đầu hành tiến theo hướng Tây Bắc. Lực lượng Khmer Đỏ của Quân khu Tây Nam do Ta Mok chỉ huy khét tiếng cuồng tín đã chuẩn bị công sự phòng thủ ở Tuk Meas trên đường 16, ở khoảng giữa biên giới và Chhuk.
Phải mất hai ngày giao chiến, Sư đoàn 325 mới có thể đánh tan tuyến
phòng ngự của Khmer Đỏ và chiếm được khu vực Tuk Meas. Cùng lúc đó tướng
Nguyễn Hữu An cũng tung Sư đoàn 8 theo hướng tây để đánh chiếm quận lỵ Kampong Trach, nằm ở giao điểm với đường quốc lộ ven biển.
Nắm quyền
chỉ huy trực tiếp trung đoàn xung kích 24, tướng Nguyễn Hữu An dẫn
trung đoàn tiến từ Tuk Meas về Chhuk. Các quân xa của Việt Nam gồm xe
tăng hạng nặng, xe tải và trọng pháo di chuyển khó khăn trên đường đất
và ruộng lúa nên đã bị quân Khmer Đỏ phục kích phá hủy một số xe và
pháo, sở chỉ huy của tướng An cũng bị tổn thất và tạm thời mất liên lạc
với các lực lượng còn ở phía sau. Tới chiều ngày 7 tháng 1, lực lượng
xung kích đã ra đến đường số 3, và trong quá trình tiến công đã đánh tan
sư đoàn quân Khmer Đỏ phòng ngự Chhuk.
Trong hai
ngày 4, 5 tháng 1 năm 1979, từ đảo Phú Quốc, hai phân đội Hải quân Việt
Nam gồm một số tàu tuần tiễu loại lớn của Mỹ, hai tàu khu trục Petya
của Nga, cùng nhiều tàu chiến nhỏ chuẩn bị chuyển Lữ đoàn Hải quân 101
và 126 đổ bộ. Hải quân cũng lập trận địa pháo 130mm ở mũi đảo Phú Quốc
để yểm trợ cho lực lượng đổ bộ.
Sẩm tối
ngày 6 tháng 1, toán quân đặc công gồm 87 người bí mật đổ bộ và tấn công
chiếm một trận địa pháo Khmer Đỏ bảo vệ bờ biển, cùng lúc, pháo 130mm
bắt đầu bắn phá các vị trí quân Khmer Đỏ. Lập tức các thuyền tuần tiễu
loại nhỏ của Khmer Đỏ xuất kích từ quân cảng Ream
và các bến cảng nhỏ tấn công vào Hải quân Việt Nam. Sau một trận giao
chiến trên biển, do có ưu thế về số lượng và hỏa lực, Hải quân Việt Nam
đẩy lùi hoặc đánh chìm hầu hết các tàu Khmer Đỏ, nhưng một tàu của Việt
Nam cũng bị trúng đạn, khiến nhiều thủy thủ bị thương vong[20]. Số tàu phóng lôi
Khmer Đỏ chạy thoát khỏi cuộc hải chiến và các cuộc không kích của
không quân Việt Nam, đến ngày 16 tháng 1 lại bị Hải quân Việt Nam chặn
đánh trong vịnh Thái Lan và bị tiêu diệt gần hết.
Tối ngày 7 tháng 1, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tiến hành đổ bộ ở chân núi Bokor, nằm ở khoảng giữa thị xã Kampot và cảng Sihanoukville.
Lữ đoàn đổ bộ được toàn bộ 3 tiểu đoàn và số xe lội nước, xe bọc thép,
nhưng do thủy triều lên cao, không có đủ chỗ triển khai đội hình, nên
không đổ bộ được số xe tải, và đến tối, 3 tiểu đoàn nữa theo dự định
cũng sẽ đổ bộ lại phải rút ra ngoài.
Theo kế
hoạch, lực lượng Hải quân đánh bộ phải triển khai một lực lượng lớn,
theo vùng ven biển đánh chiếm cùng lúc hai cây cầu quan trọng và giao
điểm Veal Renh dẫn về bán đảo Kampong Som.
Tuy nhiên, một chỉ huy lực lượng lính thủy đánh bộ do nóng vội, đã tập
hợp tiểu đoàn của mình, chở trên 12 xe tăng và xe bọc thép tiến về
Sihanoukville trước khi trời sáng. Đơn vị này bị một lực lượng lớn Khmer
Đỏ vây đánh từ chiều, qua đêm đến suốt ngày hôm sau và cuối cùng bị
tiêu diệt gần như hoàn toàn. Đến đêm ngày 7 tháng 1, Hải quân mới đổ bộ
thêm được 3 tiểu đoàn của Lữ đoàn 126 và 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn 101 lên
bãi biển, nhưng số xe tải phải đến ngày 8 tháng 1 mới lên bờ được.
Sư đoàn
304 vốn được dùng làm dự bị để tham gia đánh về Phnom Penh, nhưng do
Quân đoàn 3 và 4 đã đánh được Phnom Penh từ ngày 7 tháng 1, nên tướng An
dùng sư đoàn này để nhanh chóng giải cứu lực lượng lính thủy đánh bộ và
đánh chiếm Sihanoukville. Dẫn đầu bởi một đơn vị xe M-113, Trung đoàn
66 của sư đoàn, kế tiếp là Trung đoàn 9 hành quân suốt đêm ngày 9.
Ngày 9
tháng 1, Trung đoàn 66 sau khi gặp lực lượng Hải quân đánh bộ, chuẩn bị
giao chiến: không lặp lại sai lầm của Hải quân, Trung đoàn 66 tổ chức
chiếm cao điểm xung quanh thành phố trước khi phối hợp với hải quân đánh
bộ đánh vào thành phố. Sau khi đánh tan được Sư đoàn 230 Campuchia,
quân Việt Nam chiếm được Kampot.
Trung đoàn 9 không đến kịp vì một cây cầu sụp đổ khi xe tăng dẫn đầu
trung đoàn đi qua. Khi Trung đoàn 9 và Lữ đoàn xe tăng 203 đến thành phố
thì Kampot đã rơi vào tay quân Việt Nam, nên lực lượng này được đưa đi
đánh quân cảng Ream. Được sự trợ lực của pháo hải quân bắn từ bến cảng
lên, cánh quân này chiếm được quân cảng Ream và hải cảng Kampong Som. Tuy nhiên, vì không chuẩn bị kịp về tiếp liệu[cần dẫn nguồn], quân Khmer Đỏ đã có thể phản công chiếm lại Kampong Som ngày 14 tháng 1, nhưng quân Việt Nam tái chiếm lại vào ngày hôm sau.
Hướng thứ hai, Quân khu 9 phụ trách, tiến về phía Bắc đánh chiếm hai thị xã Tan và Takéo. Các sư đoàn Khmer Đỏ trấn giữ quân khu Tây Nam như Sư đoàn 2, 210, 230, 250, bị tan rã và rút lui vào rừng.
Cuối tháng 1 năm 1979 cuộc phản công kết thúc thắng lợi. Đến ngày 17 tháng 1 thị xã cuối cùng là Ko Kong
rơi vào tay quân đội Việt Nam và chính quyền mới của Campuchia. Cho tới
cuối tháng 3, quân đội Việt Nam coi như chiếm được hết những thành phố
và tỉnh lỵ quan trọng của Campuchia và tiến sát tới biên giới Thái Lan.
Tuy nhiên tàn quân Pol Pot vẫn tiếp tục chống cự và quấy nhiễu, gây ra
nhiều thương vong cho quân đội Việt Nam đồn trú tại Campuchia.
Truy quét tàn quân Khmer Đỏ
Đánh Siem Reap và Battambang
Trên
chiến trường Campuchia, vì quân Việt Nam tiến quá nhanh chóng, nên quân
Khmer Đỏ chỉ bị tan rã chứ chưa bị tiêu diệt hẳn. Nhiều đơn vị đã tập
trung lại thành những đơn vị nhỏ, tiếp tục đánh du kích và quấy phá.Xe
tăng T-54 của VN rút về nước năm 1988
Sau khi
Quân đoàn 4 chiếm được Phnom Penh, các đơn vị của Quân đoàn 3, Quân khu 5
và Quân khu 7 cũng vượt sông Mekong tiến chiếm và bình định lãnh thổ
phía bắc Biển Hồ và sông Tonlé Sap. Quân Khmer Đỏ đã cố gắng kháng cự gần tỉnh Battambang nhưng cũng chỉ có thể làm chậm đà tiến quân của Việt Nam. Họ đã phân tán thành nhiều đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích.
Quân đoàn
2 và các sư đoàn của Quân khu 9 sau khi chiếm được vùng duyên hải cũng
tiến dọc theo quốc lộ 4 về hướng Bắc. Mấy ngày sau khi Trung Quốc tiến
đánh biên giới Việt-Trung, Quân đoàn 2 rút về bảo vệ Hà Nội[cần dẫn nguồn]. Việt Nam bắt đầu tổng động viên, một số các trung đoàn độc lập được tăng cường lên thành cấp sư đoàn, như các trung đoàn Gia Định
1 và 2, Quyết Thắng 1 và 2, trở thành các Sư đoàn 317, 318 để gửi sang
tăng cường mặt trận Campuchia. Trách nhiệm chính trong công tác hành
quân vẫn là các đơn vị của Quân đoàn 4.
Ngày 8
tháng 1, Sư đoàn 10 theo lệnh của tướng Kim Tuấn thực hiện cuộc hành
quân chớp nhoáng truy kích quân Khmer Đỏ. Tới ngày 9, Trung đoàn 24 đã
chiếm được Kampong Thom, Trung đoàn 26 cũng đã kiểm soát được đường 6 nối Kampong Thom và Phnom Penh, Trung đoàn 66[21] được lệnh vượt lên trước hai đơn vị này đánh chiếm thành phố Siem Reap
ở phía tây bắc biển hồ Tongle Sap. Dùng 36 xe tải chở quân, được xe
tăng yểm trợ, trung đoàn nhanh chóng hành quân, tiến được 100km chỉ
trong vòng 2 giờ, đồng thời đánh tan các trạm kiểm soát của Khmer Đỏ dọc
đường. Trên đường đi, một đoàn xe chở quân Khmer Đỏ cũng nhập vào đội
hình trung đoàn do tưởng nhầm là tàn quân Khmer Đỏ tháo chạy. Do trời
tối, không ai phát hiện ra sự nhầm lẫn này. Mãi đến khi hai bên nhận ra
nhau thì một trận đánh khốc liệt mới nổ ra, quân Việt Nam tiêu diệt và
chiếm toàn bộ đoàn xe gồm 23 xe tải chở quân Khmer Đỏ. Rạng sáng ngày
10, quân Việt Nam đến Siem Reap, quân Khmer Đỏ bị bất ngờ, phải tháo
chạy ra bốn phía. Tới khi trời tối thì Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 và
Sư đoàn 5 của Quân khu 7 cũng đã tới nơi.
Ngày hôm sau, Trung đoàn 24 lại hành quân 100km nữa đánh chiếm thị xã Sisophon nằm cách biên giới Thái Lan
50km. Ngày 12 tháng 1, (sau khi trao lại thị xã cho lực lượng Quân khu
5) trung đoàn 24 một tiểu đoàn của Trung đoàn 66 cùng một đại đội xe
M-113, pháo phòng không và trọng pháo theo theo đường 5 phía nam
Sisophon đánh vào các lực lượng Khmer Đỏ đang tập trung về Battambang và
chiếm thành phố ngay trong ngày hôm đó.
Ngày 13 tháng 3 năm 1979, tướng Kim Tuấn
di chuyển Bộ chỉ huy Quân đoàn 3 đến Battambang để trực tiếp chỉ huy
chiến dịch truy quét tàn quân Pol Pot tập trung ở vùng tây nam gần biên
giới Thái Lan. Ba ngày sau, ông rời Battambang để đi Siem Reap, trên
đường đi khoảng 40km về hướng bắc Battambang, đoàn xe của ông bị một lực
lượng lớn Khmer Đỏ phục kích. Phần lớn đoàn xe bị phá hủy, tướng Kim
Tuấn bị thương nặng và mất ngày hôm sau, ngày 17 tháng 3. Ông là sỹ quan
cao cấp nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam
hy sinh khi tham chiến ở Campuchia. Ba tháng sau, tháng 6 năm 1979,
Quân đoàn 3 của ông rời Campuchia để tham gia phòng thủ biên giới phía
bắc với Trung Quốc.
Khu vực Tây Nam
Trận đánh quan trọng đầu tiên trong chiến dịch bình định diễn ra tại Kampong Speu, nằm trên quốc lộ 4
nối hải cảng Kampong Som với Phnom Penh, cách Phnom Penh khoảng 50 km.
Thị xã này, sau khi quân Khmer Đỏ di tản vội vã, do Trung đoàn 10 thuộc
Sư đoàn 339 Việt Nam chiếm đóng. Nhưng ít ngày sau, các lực lượng còn
lại của các Sư đoàn 703, 340, 221 từ tuyến phòng thủ Svay Rieng chạy về
đã tập trung lại và dự định tái chiếm thị xã. Được tin, Bộ tư lệnh Quân
đoàn 4 điều động Sư đoàn 341 đến tăng cường. Trận đánh bắt đầu ngày 21
tháng 1 năm 1979 đến ngày 7 tháng 2 mới kết thúc. Dù bị tổn thất nặng,
quân Việt Nam vẫn giữ được Kampong Speu, các lực lượng của 3 sư đoàn
Campuchia bị tan rã, chỉ còn là những nhóm nhỏ hoặc tiếp tục đánh du
kích, hoặc rút về biên giới Thái Lan.
Giữ vững
được Kampong Speu, bảo đảm được giao thông trên quốc lộ 4, quân Việt Nam
tiến đánh căn cứ Amleng, nơi mà bộ chỉ huy quân sự của Pol Pot từ Phnom
Penh rút về trú đóng. Căn cứ này nằm trong một vùng rừng núi hiểm trở,
cách Phnom Penh khoảng 100 km về phía tây nam. Lực lượng tấn công gồm Sư
đoàn 2, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9, Sư đoàn 341 của Quân đoàn 4, được tăng
cường thêm Sư đoàn 5 của Quân khu 7. Vì lực lượng tấn công quá hùng hậu,
quân Khmer Đỏ rút lui, bỏ lại căn cứ Amleng,
nhưng họ tìm đủ cách để gây khó khăn và tổn thất cho quân Việt Nam khi
họ rút lui khỏi căn cứ bằng đủ mọi cách như phục kích, bắn tỉa, gài mìn,
đốt rừng...
Chiếm xong được Amleng, quân Việt Nam mở chiến dịch đánh chiếm thị xã Leach.
Leach là một thị xã nhỏ nằm gần quốc lộ số 5 là con đường từ Phnom Penh
đi Battambang, cách biên giới Thái Lan khoảng 80 km. Trước ngày 7 tháng
1, Leach được Khmer Đỏ sử dụng làm căn cứ tiếp liệu. Sau khi Phnom Penh
thất thủ, khi quân Việt Nam chưa có đủ thì giờ để chiếm đóng hết các vị
trí, Khmer Đỏ dự định biến Leach thành một căn cứ phản công. Một phần
lớn những lực lượng còn lại được tập trung tại đây. Tuy quân số gồm
nhiều sư đoàn (104, 210, 260, 264, 460, 502), nhưng trên thực tế, mỗi sư
đoàn chỉ còn chưa tới một ngàn quân[cần dẫn nguồn]. Lực lượng phòng thủ cũng có vài khẩu pháo 105 ly và vài xe thiết giáp.
Để tấn
công Leach, quân Việt Nam đã sử dụng một lực lượng lớn và tấn công làm
bốn hướng. Hướng thứ nhất, do Sư đoàn 341 thay thế Sư đoàn 330 đã bị hao
hụt quân số quá nhiều khi giải toả quốc lộ số 5, đánh chiếm thị xã Pursat
để từ đó đánh vào mặt bắc của Leach. Hướng thứ hai do Sư đoàn 9 từ căn
cứ Amleng mới chiếm được đánh vào phía đông. Hướng thứ ba do Quân khu 9
phụ trách được tàu đổ bộ chở đến tỉnh Kokong,
rồi từ đó, tấn công mặt nam. Hướng thứ tư, do Sư đoàn 31, Quân đoàn 3,
từ biên giới Thái Lan theo tỉnh lộ 56 đánh ngược về mặt tây của Leach.
Vì đây là
một trận quyết định, nên trận đánh đã kéo dài trên một tháng. Tất cả
các sư đoàn tham chiến đều bị tổn thất nặng. Cuối cùng, vì hoả lực thua
kém, bệnh tật, bị hao hụt lực lượng mà không được bổ sung nên căn cứ
Leach của Khmer Đỏ bị Sư đoàn 9 chiếm được ngày 29 tháng 4 năm 1979.
Trận đánh tại căn cứ Leach là trận đánh có quy mô lớn cuối cùng trên đất
Campuchia. Sau khi Leach bị mất, các đơn vị còn lại của Khmer Đỏ rút về
các mật khu ở Pailin và Taxang sát biên giới Thái Lan. Một số khác phân tán thành những đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích.
Các đơn
vị của Việt Nam bắt đầu phân nhiệm để hành quân bình định. Nhiều sư đoàn
thiện chiến đã bị hao hụt nặng được rút về nước. Những sư đoàn tân lập
được gửi qua tăng cường hay thay thế. Phía Việt Nam cho biết, tới cuối
tháng 1 năm 1979, quân Việt Nam đã có tới 8.000 thương vong. Về phía
quân Khmer Đỏ dù bị thiệt hại nặng vẫn còn khoảng 30.000 quân có còn khả
năng quấy phá, phục kích, gây mất ổn định khiến Việt Nam phải duy trì
một lực lượng quân sự lớn tại Campuchia.
Thành lập chính quyền mới
Ngày 5
tháng 1 năm 1979, 66 đại biểu Campuchia được triệu tập họp ở Mimot để
bàn về việc thành lập một đảng cộng sản Campuchia mới. Đảng này lấy lại
tên Đảng Nhân dân Cách mạng có từ thời 1951. Pen Sovan, một cán bộ
Campuchia tập kết về Hà Nội năm 1954, đang mang quân hàm thiếu tá trong
quân đội Việt Nam[cần dẫn nguồn], được đề cử giữ chức chủ tịch đảng. Những Uỷ viên thường vụ của đảng gồm Hun Sen, Bou Thang, Chan Kiri, Heng Samrin và Chia Soth.
Ngày 8
tháng 1 năm 1979, đài phát thanh Phnom Penh loan báo Phnom Penh đã được
giải phóng bởi những lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia. Một Hội
đồng cách mạng được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng mười
ngày sau, hội đồng này ký một hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hóa sự
hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia.
Tới mùa xuân 1981, hiến pháp
mới của Campuchia được thông qua, sau đó là cuộc bầu cử toàn quốc để
chọn ra 117 đại biểu quốc hội. Hun Sen được bầu làm Bộ trưởng Ngoại
giao, Heng Samrin làm Chủ tịch nước. Ba sư đoàn mới được thành lập và
đặt dưới Bộ Quốc phòng, nhưng an ninh vẫn được duy trì chủ yếu dựa vào
sự hiện diện của 180.000 quân Việt Nam mà lực lượng chủ chốt là Quân
đoàn 4 do tướng Lê Đức Anh chỉ huy[22].
Chính quyền mới của Campuchia chỉ được một số nước cộng sản công nhận. Chính phủ của Pol Pot tiếp tục được các nước phương Tây, Trung Quốc và khối ASEAN công nhận và vẫn là thành viên Liên hiệp quốc.
Căng thẳng biên giới với Thái Lan
Căn cứ các lực lượng chống đối 1979-1984
Campuchia bị mất, Thái Lan
trở nên một địa bàn chiến lược quan trọng để Trung Quốc có thể giúp đỡ
cho Khmer Đỏ tiếp tục cuộc chiến. Sau khi họp xong với Ieng Sary, Đặng Tiểu Bình bí mật cử Gừng Giao, Uỷ viên Bộ Chính trị, cùng Thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long sang Bangkok hội đàm với Thủ tướng Thái Kriangsak Chomanan tại căn cứ không quân Utapao.
Sau khi Việt Nam liên minh với Liên Xô và tấn công Campuchia, Thái Lan
không còn giữ thái độ trung lập nữa, Kriangsak đồng ý để Trung Quốc dùng
lãnh thổ Thái lan tiếp tế cho Khmer Đỏ.
Sau khi quân đội Việt Nam tiến vào Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot trong chiến tranh biên giới Tây Nam năm 1979, các tàn quân Khmer Đỏ rút về các khu vực biên giới gần Thái Lan
và bắt đầu tổ chức chiến tranh du kích. Trong các cuộc hành quân càn
quét lực lượng du kích, không tránh khỏi việc quân đội Việt Nam tiến sát
hoặc thậm chí vượt qua biên giới Thái Lan để tấn công các căn cứ Khmer
Đỏ. Trong bối cảnh địa chính trị những năm 1980, Việt Nam và Thái Lan là
hai nước có hệ tư tưởng đối nghịch. Sau kết thúc của Việt Nam Cộng hòa
năm 1975 và sau đó là việc Quân đội Việt Nam tiến vào Campuchia năm
1979 thì biên giới Thái Lan-Campuchia trở thành biên giới tận cùng của
hai cực đối đầu trong chiến tranh Lạnh:
Thái Lan thân Mỹ và Việt Nam thân Liên Xô. Sự hiện diện quân sự lớn của
Cộng sản Việt Nam ngay kề bên một Thái Lan quân chủ làm nước này hết
sức lo ngại. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong và sau chiến tranh Việt Nam
cũng đã hỗ trợ một lực lượng du kích cộng sản Thái lên đến 20 nghìn
người hoạt động ở vùng Đông Nam. Căng thẳng trên mở màn cho một chuỗi
những vụ đụng độ và đối đầu lẻ tẻ, tuy chưa bao giờ được tuyên bố là một
cuộc xung đột chính thức nhưng đã kéo dài cho đến khi Việt Nam rút quân
khỏi Campuchia năm 1988
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nhận xét