Chủ Nhật, 31 tháng 3, 2013

Làm sao để bạn là trung tâm cầu nối của mọi người


   Con người với muôn vàn tính cách,sở thích,đặc điểm riêng...nói chung là "không ai giống ai" .Vậy đứng trước biển người ấy,bạn là gì đối với họ?Bạn thử nghĩ xem từ khi học cấp 1 rồi cấp 2 ,sau đó sang cấp 3 và cao hơn nữa là cấp Đại học,bạn đã quen đã biết và kết bạn được bao nhiêu người...nhiều không kể hết hay khiêm tốn chỉt bằng trên đầu ngón tay....Vậy bạn là một trong trường hợp nào...
    

Các bạn biết rằng, xã hội con người luôn có sự va chạm qua lại với nhau,không một ai có thể tách rời tình trạng va chạm ấy...Tại sao con người cần bạn? Chúng ta biết rất rõ những trường hợp sau đây là cần bạn nhất:
1,Có một niềm vui,công việc cần chia sẽ
2.Có chuyện buồn trong cuộc sống
3.Cần một sự giúp đở nào đó từ bạn
.....................v.v.................
  Đối với "đại gia","quý tử" việc cần nhiều bạn đối với họ hầu như là không cần thiết(điều này được chứng minh thực tế) do hoàn cảnh đầy đủ từ gia đình..và họ cảm thấy mình nhất thiết không cần có nhiều bạn bè,thậm chí một người bạn đúng nghĩa....Nhưng họ đâu biết rằng cuộc đời "sông có khúc" ,"người có lúc" một ngày nào đó,gia đình gặp sống gió,hoạn nạn…lúc này cần có người để chia sẽ….nhưng hởi ơi ,lấy người đâu để chia sẽ.
  Đối với những con người của xã hội…thì hoàn toàn ngược lại….Họ nhận ra được vai trò quan trọng của một người khi có bạn,có bè.Những con người đó…lúc nào họ cũng vui,lúc nào họ cũng cảm thấy mình an toàn trong mọi hoàn cảnh xã hội.Họ có người để chia sẽ,ngược lại họ nhanh chóng nhận được sự giúp đở từ người khác như công việc,tiền bạc, những lúc hoạn nạn,…tất nhiên,họ phải làm một cái gì đó cho bạn cho bè của mình.
   Vậy tại sao bạn không xây dựng cho mình một cuộc sống với tư cách trung gian cầu nối của mọi người nhỉ? Công việc này không khó…nhưng cũng không dễ dàng đâu.
Tôi đã có một thời gian dài,suy ngẫm về cuộc đời và kết luận được một vài điều về tình bạn(tuy chưa chính xác cho lắm)
   Để bạn là trung gian cầu nối cho mọi người thì bạn là những con người có đặc điểm sau đây:
1.Bạn là người nhìn nhận con người xung quanh bạn phải đa chiều,không phiến diện như:không ai có thể xấu hoàn toàn,không ai vô cảm trọn vẹn,không ai khó tính một cách cứng nhắc,….Bạn phải tin rằng,một ngày nào,hay một trường hợp nào đó họ vẩn là người tốt,dễ tính,là người có tình cảm trong lòng….
2.Tính tình của bạn phải hòa đồng,vui vẽ,nhiệt tình(không nhất thiết thể hiện ra và đối phương vẩn hiều) và dễ tính.Chỉ có dễ tính đối với bản thân thì mới mở được lòng cho mọi người xâm nhập vào.
3.Bạn là một nhà “tâm lý” phải khá, giỏi .Tại sao vậy,việc hiểu tâm lí của người rất quan trọng.Đầu tiên bạn là người dường như không có cá tính gì nổi trội so với đối phương bạn cần tìm hiểu.Trong một cuộc trò chuyện bạn phải hiểu đối phương đang nói gì,muốn gì,bạn phải hòa vào chủ đề của họ bằng cách lắng nghe,hay có những lời tiếp lại chủ đề của họ một cách tôn trọng.Dù chưa biết gì về họ nhưng bạn ít ra cứ nằm im hay lắng nghe họ nói mà đừng có cắt ngang lời họ,mặc dù chủ đề đó không có mấy hứng thú đối với bạn….Dần dần một ngày kia,đối phương mà bạn trò chuyện lần trước khi gặp bạn sẽ cảm thấy gần gửi hơn
4.Trước khi hành động một việc gì đó,bạn luôn đặt mình vào trong trường hợp của họ.Tức là “nếu bạn làm cái này,cái kia mà bạn không thích” thì chắc chắn đối phương cũng sẽ không thích,và ngược lại.Bạn phải hiểu là như vậy trước những hành động của mình….có thể bạn thích cái này nhưng đối phương thì lại không thích.Nếu bạn là người cần đối phương,thì bạn phải là người đặt họ vào "trung tâm" của vấn đề chứ không phải là bạn
5.Bạn là người luôn chủ động nói chuyện hay “mở bài” trước một đối phương ít nói.Có thể họ không tiếp lời của bạn,hay tiếp một vài lời miễn cưỡng nhưng không sao…bạn cứ bắt chuyện,nếu còn cơ hội gặp lại họ thì hãy mĩm cười hoặc hỏi thăm,….dần dần bạn cũng “chai mặt” trong mắt họ.
6.Bạn phải là người có tính tình trung hòa,chân thành,không có tính bon chen trong cuộc sống(có nhưng đừng bệnh nặng quá).Không có tính cạnh tranh,ganh tị thành quả của người khác….Đây là yếu tố rất quan trong đấy.Chúng ta thường thấy,những người có nhiều bạn thường không quan tâm chuyện công việc,thành quả của người khác một cách tiêu cực như tính toán,ganh tị,….và phải tuân theo quy luật “của họ thì kệ họ” và khi đó,đối phương biết bạn không rơi vào trường hợp trên,họ lại càng mến và thương bạn nhiều hơn.Lúc đó vô tình những người bạn biết sẽ quý bạn và tôn trọng bạn một cách tự nhiên
7.Bạn là người “dân chủ” thực sự.Tại sao lại vậy? Một người sẽ thích tiếp xúc với bạn khi người đó được tôn trọng trong mọi trường hợp:Sở thích: tóc, tai,ăn ,mặc,….công việc của họ,thói quen của họ,….Dù cho những điều đó không có lí thú gì,không phải là sở thích của bạn…nhưng nếu bạn gặp phải, bắt buộc bạn phải nói: “đó là công việc,sở thích của bạn,mình rất tôn trọng những điều đó của bạn” thì chắc chắn đối phương sẽ cười ,cám ơn bạn nhiều.Bạn không được áp đặt những điều bất kì bạn muốn lên người khác .Ví dụ : Bạn là người thích tóc tai,gọn gàng nhưng khi gặp một đối phương thích làm mode thời thế và họ nhuộm tóc, để sole hơi dài….và bạn vừa gặp phất ngay lời “khiếp cái tóc,cắt tóc đi dài quá” .Như vậy bạn vừa áp đặt sở thích của bạn lên người khác rồi đó.Bạn thích tóc ngắn,gọn gàng nhưng đối phương thì ngược lại,họ không thích kiểu tóc giống bạn nhưng họ cũng không ý kiến gì về tóc của bạn.Vậy cớ sao bạn lại vô tình áp đặt điều đó lên người khác…Vậy là cuộc tiếp xúc của bạn có thể không thành công rồi.Nhiều trường hợp còn phản tác dụng và kết quả là “bị ăn đòn” không đáng có do không hiểu đối phương.
Trong chuyện kết bạn,dân chủ rất là quan trọng
8.Bạn là người cởi mở,có tấm lòng vị tha tốt,không tính toán những chuyện nhỏ nhặt mà làm mất đi hòa khí trong mắt mọi người...Đồng thời bạn là người phải có tần số “nhường, nhịn” tốt thì tất cả mọi sự việc xẫy ra xung quanh mình đều có thể giải quyết ổn thỏa.
9.Bạn phải là người thẳng thắn.Nhưng sự thẳng thắn này phải  biết biến hóa đúng lúc.Bạn không thể “lên lớp” đối phương khi bạn mới quen hay sau khi đã quen mà “lên lớp” một cách vô vị,cho có lệ, thì sẽ phản tác dụng.Bạn “lên lớp” đối phương chỉ khi bạn thực sự là người đem tấm lòng của mình cho công việc “lên lớp” đó.Lúc này, đối phương sẽ hiểu bạn nói gì.

   Đó là một trong những tiêu chuẩn để bạn có thể trở thành trung gian cầu nối của mọi người đó .Tôi không biết có được nằm trong số đó không.Nhưng,khi sống xa nhà (Tôi ở Kon Tum nhưng ra Huế học ) ,tôi luôn cảm thấy mình an toàn.Tôi sống trên đây(Huế),mặc dù gọi là bạn thân thì không nhiều,nhưng bạn bè quen biết thì chắc cũng không đến nổi nào.Tôi được may mắn vì không có tính khí gì đặc biệt trước mọi người,nhưng cũng là người có trách nhiệm,hòa đồng và tôn trọng người khác.Tôi sống trên đây cũng có thể gọi là khó khăn,tiền bạc thì hầu như lúc nào cũng thiếu.Nhưng tôi may mắn được mọi người che chở,bao bọc.Tôi không phải là gì của họ nhưng không hiểu sao họ lại tốt với tôi.Những lúc tôi không đi chợ thì thỉnh thoảng có cô gì hàng xóm người Huế đem đồ ăn cho tôi và luôn thăm hỏi tôi..Tôi hiểu đó là tấm lòng của họ.Hay thằng bạn học cùng với tôi thì có lần mua cho tôi 5 đến 6 quả trúng mà không một chút tính toán,...Dù tôi khó khăn thật,nhưng khi tôi tìm đến bạn bè vay mượn tiền họ đều cho tôi vay mượn...Có lần gia đình tôi chưa kịp gửi tiền lên cho tôi,nhưng tôi tìm đến một thằng bạn (sinh năm 1987,quê ở Đăk Nông) và cho tôi mượn dài hạn hơn 1 triệu đồng,không một chút tính toán,....Tôi thầm cám ơn tất cả mọi người đã giành cho tôi rất nhiều tình cảm,tôi cảm thấy mình may mắn quá...
Có trường hợp khác,tôi có hai người bạn quen biết,Hai người đó không hợp nhau vì không chịu cảm thông và nhường nhịn nhau.Kết quả là ,mỗi người tự sống riêng.Còn riêng tôi,tôi thì chơi được với cả hai.Ai cũng tốt đối với tôi.Tôi không đứng về phe nào,hay bênh bên nào,....tôi chỉ nói hai người đã không hợp nhau thì nên sống riêng và “nhường nhịn” nhau là có thể giải tỏa toàn bộ vấn đề,nhưng họ không nghe tôi.
  Đó là câu chuyện của tôi,Qua bài viết này tôi muốn gửi gắm cho mọi người biết được giá trị và việc kết bạn là rất quan trọng.Bạn sẽ không nhận ra sự quan trọng của việc kết bạn khi bạn còn sống trong gia đình được bố mẹ,anh chị che chở...Nhưng khi bạn ra xã hội mà ở đó bạn hoàn toàn tự lập,lúc này bố mẹ,anh chị của bạn sẽ không thể hiện diện trực tiếp mà chăm sóc bạn như trước.Lúc này, chỉ còn cách là tìm đến một người bạn để chia sẽ mọi khó khăn,buồn vui trong cuộc sống...Vì chỉ có kết bạn thì dù bạn sống ở nơi đâu bạn vẫn cám thấy mình an toàn,ít ra vẫn có người chào,mời bạn uống một tách trà,hỏi sức khỏe của bạn khi bạn đí công tác xa,....
   Nếu bạn là kết tinh của nhưng yếu tố trên thì chắc chắn bạn sẽ là con người của xã hội.
Chú ý: Nếu như xây dựng tình bạn dựa trên vật chất,mà thiếu tình cảm thực thụ, thì tình bạn đó cũng chỉ “đến rồi đi” mà thôi....

Những dòng tâm sự của Young Bé A ( A BÉ )


Thứ Hai, 25 tháng 3, 2013

Game Call Of Duty 1


Đây là game 3d có gốc nhìn người chơi thứ nhất(chỉ thấy tay và súng) mô phỏng về cuộc chiến tranh thế giới thứ 2 (1939-1945) giữa quân đồng minh và Đức Quốc Xã.Trong game bạn sẽ vai 3 người lính của 3 nước trong lực lượng đồng minh chống Phát xít là Mỹ,Anh,Liên Xô.

Đầu tiên là trận đánh của lính Mỹ vào nước Anh, Pháp,Úc .Lúc này bạn vào vai một người lính Mỹ tên là Martin cùng với chỉ huy của mình là Đại Uý Floney...đi đánh chiếm các cứ điểm của Đức tại Anh ,sau đó là Pháp và sau đó đi cứu viên Đại Uý người anh tên là Price và đến ÚC cứu thêm một trung sĩ người anh nữa....

Tiếp theo là trận đánh của quân Anh tại một cái cầu trong lãnh thổ Pháp và nhiều địa điểm khác...Bạn sẽ vào vai một người lính Anh tên là Evan..cùng với chỉ huy của mình đọ súng rất ác liệt với lính Đức quốc xã...

Rồi tiếp bạn sẽ vào vai một người lính Nga cùng với hồng quân Liên Xô chiến đấu giữ Xtalingart ,trận đánh bằng xe tăng ở Xcôcxơ,rồi tiến vào Ba Lan,rồi Bec Lin,...
Đây là game bắn súng rất hay....

 Game này không đòi hỏi cấu hình cao...chỉ máy tính PC hoặc Laptop chạy DRAM 1 với cây RAM chỉ bằng 512 MB là đủ rồi.
 File Game sau đây có đuôi là . ISO (hình ảnh)
Để chơi được bạn làm theo thứ tự như sau:
Bước 1:
-Tải CD 1  của game.
1.http://www.mediafire.com/?5aqq6n10s1858fd
2.http://www.mediafire.com/?k97eabdd87mbkyy
3.http://www.mediafire.com/?9v9v9ouekayq9i5
4.http://www.mediafire.com/?zu905r7dkcds9ar
5.http://www.mediafire.com/?80sq34asy58di7x
6.http://www.mediafire.com/?mho84xajgm9y79n
-Tải CD 2 của game.
1.http://www.mediafire.com/?z86vftomxfqkqaz
2.http://www.mediafire.com/?a8bjhb8nrmamvjk
3.http://www.mediafire.com/?d9zgx5mznr1d9m8
4.http://www.mediafire.com/?unpfzh37bhjbvgu
5.http://www.mediafire.com/?ksvecos6cel465b
6.http://www.mediafire.com/?e93b3f9zcqqwp6q
Bước 2:
Sau khi đã tải 2 CD của game Call Of duty 1 trên,ta cho mỗi nhóm file CD vào những thư mực khác nhau để nối lại.Dùng cái này để nối lại.
Bước 3:
Sau khi đã nối lại ta được 2 CD của game,mỗi CD có đuôi là . ISO.Để cài đặt thì ta dùng phần mềm tạo đĩa ảo....dùng cái này để tạo đĩa ảo(cài đặt bình thường)
Bước 4.Tiến hành cài đặt...ta click 2 lần vào CD 1 của game và chọn Intals.....nhập khóa cài đặt...rồi cài đặt...Khi nó đòi CD 2 thì tại lại click 2 lần vào CD 2 rồi ok để nó chạy đến hết..và nhập lại CD 1 làn hoàn tất......
Bước 5:
 bạn vào trong cd thứ nhất /sau đó vào thu mực Deviance/crak/coppy cái file codsp.exe trong đó vào thu mực call of duty trong ổ đĩa C và chơi thôi.....good luck
Bây giờ ta cùng đồng đội chiến đấu chóng phát xít Đức nhé..
Nếu có ghé qua thì vui lòng cám ơn để lần sau mình up game khác nhé...game còn nhiều lắm....chức may mắn

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2013

Sự linh nghiệm của bùa chú trên bia mộ Kim tự tháp

Sự linh nghiệm của bùa chú trên bia mộ Kim tự tháp
Kim tự tháp là lăng mộ mà các vị vua Ai Cập cổ đại xây dựng cho mình. Kim tự tháp Ai Cập được coi là một trong 7 kỳ quan thế giới cổ đại. Hầu hết các kim thự tháp lớn nhỏ ở Ai Cập đều được xây dựng vào thời vương triều thứ 3 đến vương trieùe thứ 6 của Ai Cập.

Kim tự tháp Ai Cập qua những tháng năm lịch sử kéo dài bốn ngàn năm vẫn bao trùm một bức màn bí ẩn, tràn đầy những sắc thái thần bí. Trong đó những lời bùa chú trên bia mộ là khiến người ta kinh hãi nhất: "Bất cứ người nào đến quấy nhiễu sự yên ổn của Pharaông, thì cánh cửa tử thần sẽ giáng xuống đầu người đó". Những lời bùa chú tựa như thần thoại đó, đã cảnh cáo trước cho những kẻ tham lam đời sau muốn nhòm ngó những báu vật vô giá trong mộ, đề phòng việc đào trộm mộ. Lạ thay, mấy thể kỷ nay, phàm những người dám cả gan đi vào trong hầm mộ Pharaông, dù là kẻ trộm mộ, người mạo hiểm hay là các nhà khoa học, các nhân viên khảo sát, cuối cùng đều ứng nghiệm lời bùa chú, nếu không phải chết ngay tại chỗ thì cũng mắc phải chứng bệnh lạ không chữa được rồi chết trong đau đớn khổ cực.
Tháng 11 năm 1922, nhà khảo cổ nổi tiếng nước Anh, ngài Hôvađơ Catơ, sau 7 năm thăm dò tìm kiếm đã phát hiện và mở cửa lăng mộ Pharaông Tutancamôn tại vùng thung lũng Đế vương; Từ trong đó đã đào được hơn 5.000 hiện vật gồm có châu báu, đồ trang sức, quần áo, binh khí, công nghệ phẩm, dụng cụ gia đình,...  Thành công đó đã làm chấn động thế giới. Ngày 18 tháng 2 năm sau, khi công việc khai quật đang đứng trước thắng lợi mới, huân tước Canaphen, người đã đầu tư rất nhiều tiền của giúp Catơ tiến hành công việc, đi vào trong hầm mộ và sau đó bỗng mắc bệnh nặng, rồi qua đời. Chị gái của ông ta, trong hồi kỹ đã viết rằng: "Trước lúc chết, ông bị sốt cao và luôn miệng kêu gào: Tôi đã nghe tiếng thở của nó, tôi phải cùng đi với nó đây!".
Cách đó không lâu sau, một nhà khảo cổ khác, ngài Môsơ trong khi khai quật đã giúp đẩy đổ bức tường đá chủ yếu trên đường vào hầm mộ cũng qua đời vì mắc phải một chứng bệnh lạ giống như thần kinh rối lọan. Đaoglat chuyên gia chiếu chụp X quang cho xác ướp Pharaông, không bao lâu cũng trở thành vật hy sinh cho các lăng mộ Pharaông, ông ta ngày càng suy nhược và qua đời. Trong 2 năm sau khi khai quật lăng mộ đó, có tới 22 người trong đội khai quật chết một cách bí ẩn, không rõ nguyên nhân. Từ đó tin tức về việc Pharaông làm chết người lan truyền khắp nơi. Lời bùa chú trên bia mộ càng khiến người ta phân vân khó nghĩ
Năm 1924, nhà sinh vật học người Ai Cập quốc tịch Anh ngài Oaitơ, đưa theo một số người hiếu kỳ đi vào hầm mộ. Điều khiến người ta khiếp sợ là, sau khi vào tham quan về, ông ta treo cổ tự tử. Trước lúc chết, ông ta cắn đầu ngóntay viết thư để lại, nói rằng cái chết của ông ta là do bùa chú của lăng mộ Pharaông tạo ra, bản thân rất hối hận, nên phải ôm lòng ân hận ấy đi gặp thượng đế. Điều khiến người ta kinh ngạc và khó hiểu hơn nữa là cái chết của giám đốc nhà bảo tàng Cairo, ông Khamin, Maihơlairơ. Xưa nay Khamin không hề tin lời bùa chú của lăng mộ Pharaông lại có thể linh nghiệm. Ông ta nói: "Cả đời tôi đã từng nhiều năm giao thiệp với xác ướp và lăng mộ cổ Ai Cập. Chẳng phải tôi vẫn đang sống mạnh khỏe đấy ư?". Thế nhưng sau khi nói lời đó chưa đầy 4 tuần, ông bỗng nhiên mắc bệnh và qua đời. Lúc đó ông ta còn chưa đầy 52 tuổi. Hơn nữa người ta còn phát hiện ra rằng, cùng ngày ông qua đời, trước lúc chết, ông vẫn chỉ huy một đội công nhân đóng gói một lô hiện vật quý giá, mà lô hiện vật đó được khai quật và thu lượm từ lăng mộ Pharaông Tutancamông. Tất cả những điều đó khiến cho truyền kỳ về Pharaông càng được phủ thêm bức màn đen bí ẩn.
Lúc bấy giờ, người ta mới bất giác hỏi rằng: Những người giao thiệp với Kim tự tháp Pharaông Ai Cập bị chết vì nguyên nhân gì? Những lời bùa chú trên bia mộ Pharaông có thật linh nghiệm không?
Một quan điểm cho rằng, trên vách những lỗi đi trong hầm mộ có một lớp những thứ màu phớt hồng và màu lục xám có khả năng là lớp sinh ra tia sáng chết. Nghe nói nó phóng ra những chất làm chết người.
Một số nhà khoa học khác lại có quan điểm khác, tức là nền văn minh của người Ai Cập cổ đại đã đạt tới trình độ có thể dùng những côn trùng có nọc độc cực mạnh hoặc những chất kịch độc làm vũ khí, để bảo vệ lăng mộ của những kẻ thống trị, tránh bị kẻ khác xâm phạm. Năm 1956, nhà địa lý học Oaitơxơ, trong lúc khai quật lăng mộ Rôcalibi đã từng bị dơi tập kích.
Những năm gần đây, một số nhà khoa học có ý đồ dùng sinh vật học để giải thích. Ngài Yxơđinhao, tiến sĩ sinh vật học, giáo sư y học của đại học Cairo, năm 1963 đã nói rằng: Căn cứ theo kết quả mà ông định kỳ tiến hành thí nghiệm đối với các nhà khảo cổ và các nhân viên, phát hiện thấy tất cả mọi người, trên cơ thể đều tồn tại một mầm bệnh độc có thể dẫn đến sốt cao và cảm nhiễm ở đường hô hấp. Những người đã vào hầm mộ, vì nhiễm phải bệnh độc này sẽ dẫn đến viêm đường hô hấp, rồi cuối cùng sẽ dẫn đến tắc thở mà chết. Nhưng vì sao những mầm bệnh độc này có thể có được sức sống bền bỉ và mãnh liệt đến như vậy hầm mộ. Nó lại sống lâu tới 4.000 năm trong xác ướp. các nhà khoa học không hiểu nổi.

Năm 1983 một nữ bác sĩ người Pháp tên là Phihirô, sau nhiều năm nghiên cứu đã nhận thấy nguyên nhân cái chết đó là do phản ứng quá nhạy cảm đối với những vi khuẩn độc hại của những người khai quật và những người tham quan hầm mộ. Theo nghiên cứu của bà thì bệnh trạng của những người đó cơ bản giống nhau, bị cảm nhiễm ở phổi, khó thở mà chết. Bà giải thích: Sau khi các Pharaông cổ Ai Cập đã chết, người ta chôn theo những vàng bạc châu báu, áo quần; ngoài ra còn có rất nhiều rau quả và thực phẩm. Nhưng rau quả và thực phẩm đó, qua thời gian dài hàng ngàn năm thối rữa sinh ra những loài khuẩn độc mà mắt thường không thể nhìn thấy được. Những khuẩn đó bám trong hầm mộ. Bất kể là ai khi thở hít phải những khuẩn độc đó, phổi sẽ mắc bệnh cấp tính, cuối cùng dẫn đế khó thở và chết trong đau khổ. Giáo sư Đômixiân ở Xtraxbua, vì chui vào hầm mộ vừa mới khai quật để dập bản khắc chữ, trong đó còn đầy những khuẩn độc nên đã nhiễm độc mà chết. Cho đến nay, cách giải thích đó được coi là có lý nhất.
Nhưng, những lời bùa chú ở bia mộ Pharaông rốt cuộc là như thế nào? Điều này còn phải chời sự nghiên cứu kỹ hơn nữa của các nhà khoa học. Hơn nữa, gần đây phát hiện những vấn đề liên quan đến cái gọi là "năng lượng tháp". Chưa biết việc đó thực hư thế nào, không thể đoán trước được.
Một số nhà khoa học khác cho rằng, cái gọi là bùa chú của Pharaông, rất có thể đến từ bản thân sự cấu tạo của Kim tự tháp, thiết kế cấu tạo của hầm mộ và lối đi trong mộ có thể sinh ra, tụ tập và phóng ra các tịa xạ, các dao động từ và các sóng năng lượng, hoặc hình thành một trường vật nào đó.
Đâu là đúng, đâu là sai, mỗi người một cách lý giải; nhưng muốn mở được bí mật của những lời bùa chú, xem ra không hề đơn giản, ít nhất là hiện nay.
 Young be a Sưu tầm
Young Be A -Người sưu tầm bài viết trên

"Lỗ hổng thời gian" và những vụ mất tích bí ẩn


Cảnh tượng tàu Titanic đang chìm đắm do va phải băng ngày 14/4/1912 (Ảnh: titanic.wz.cz)
Giới học giả chuyên nghiên cứu bí ẩn siêu nhiên ở châu Âu và Mỹ gần đây xôn xao về một số vụ mất tích - tái hiện một cách thần bí. Nhiều người cho rằng hiện tượng có liên quan đến “lỗ hổng thời gian”.
Ngày 14/4/1912, con tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng, khiến 1.500 người mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.
Ngày 24/9/1990, con tàu Foshogen đang đi trên vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Thuyền trưởng Karl đột nhiên phát hiện một bóng người từ vách núi. Qua kính viễn vọng, ông nhìn rõ một phụ nữ đang dùng tay ra hiệu cấp cứu. Người phụ nữ này mặc trang phục quý tộc Anh thời kỳ đầu thế kỷ 20, toàn thân ướt sũng và rét run cầm cập.
Khi được cứu lên tàu, trả lời câu hỏi của thủy thủ, cô nói: “Tôi tên là Wenni Kate, 29 tuổi, một hành khách trên con tàu Titanic. Khi tàu đắm, một con sóng lớn đánh giạt tôi lên núi băng này, thật may mắn là các ngài đã kịp cứu giúp”. Nghe câu trả lời đó, mọi người đều cảm thấy hết sức kỳ lạ và họ nghĩ rằng có lẽ do sốt cao, cô gái này đã nói nhảm. Kate được đưa đến bệnh viện để kiểm tra. Sức khỏe của cô không có gì đáng ngại ngoài việc cô quá sợ hãi do bị lạc nhiều ngày, thần kinh cũng không có dấu hiệu rối loạn. Các xét nghiệm về máu, tóc, cho thấy cô khoảng chừng 30 tuổi.
Vậy là nảy sinh một vấn đề khó tin đến kinh người: Chẳng lẽ từ năm 1912 đến nay, trải qua gần 80 năm mà Kate không hề già đi chút nào? Thẩm tra, đối chiếu với bản danh sách hành khách trên tàu Titanic, người ta nhận thấy mọi nội dung đều trùng khớp với những gì Kate nói. Trong khi mọi người đang tranh luận thì sự việc thứ hai xảy ra.
Thuyền trưởng Smith của tàu Titanic.
Thuyền trưởng Smith của tàu Titanic.
(Ảnh: titanic.wz.cz)
Ngày 9/8/1991, một tổ khảo sát khoa học hải dương trong khi khảo sát tại khu vực phía Tây Nam cách núi băng Bắc Đại Tây Dương chừng 387 km, đã phát hiện và cứu sống một người đàn ông 60 tuổi. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng, khá gọn gàng, rít sâu điếu thuốc. Không ai có thể nghĩ rằng đó chính là thuyền trưởng danh tiếng Smith của con tàu Titanic.
Nhà hải dương học nổi tiếng, tiến sĩ Marwen Iderlan, sau khi cứu được Smith đã phát biểu trước báo chí rằng không thể có sự việc nào đáng kinh ngạc hơn. Người đàn ông này không thể là tên lừa đảo, ông ta đích thực là thuyền trưởng của con tàu Titanic, người cuối cùng chìm xuống biển cùng với con tàu . Khó tin hơn nữa là Smith đến nay đã 140 tuổi nhưng trên thực tế mới chỉ là một ông già 60 tuổi. Khi được cứu, ông một mực khẳng định rằng hôm đó là ngày 15/9/1912.
Sau khi được cứu, ông được đưa đến Viện tâm thần Oslo (Nauy) để chữa trị. Nhà tâm lý học Jale Halant đã tiến hành hàng loạt thử nghiệm và kết quả là Smith hoàn toàn bình thường. Ngày 18/9/1991, trong một đoạn tin vắn, Halant khẳng định, người được cứu đích xác là thuyền trưởng Smith vì ngay việc đối chiếu vân tay cũng đã cho thấy điều đó.
Sự việc cần được giải thích rõ ràng. Một số cơ quan hải dương Âu - Mỹ cho rằng thuyền trưởng Smith và hành khách Kate đã bị rơi vào “hiện tượng mất tích - tái hiện xuyên thời gian”.

800 lính Anh mất tích trong mây
Trong Đại chiến Thế giới lần thứ nhất, vào ngày 21/8/1915, hơn 800 lính thuộc Trung đoàn Norfolk 5 của quân đội Anh được lệnh cơ động lên một ngọn núi cao thuộc vùng Dardanelles, Thổ Nhĩ Kỳ. Theo lời kể của các nhân chứng, có một đám mây lớn bay sà xuống và bao phủ lên đoàn quân, lúc đó đang tiến vào thung lũng. Đội quân càng lên cao thì càng chìm dần vào trong khối mây mờ.
Khi người cuối cùng khuất hẳn, cả khối mây đã bốc lên cao và biến mất, người ta không thấy bất kỳ người lính nào bước ra khỏi đám mây đã bay đi đó. Từng ngọn cây, bụi rậm trên đỉnh núi đều có thể nhìn rõ, nhưng một đội quân hơn 800 người đã mất tích hoàn toàn. Khi đó, 22 người lính của New Zealand cũng đang tập cùng trận địa với đội quân này, trên một ngọn đồi nhỏ khác cách đó khoảng 600 m. Họ đã tận mắt chứng kiến cảnh tượng bí hiểm trên.
Có giả thuyết cho rằng toàn bộ đội quân đã bị lực lượng đặc nhiệm của Thổ Nhĩ Kỳ bắt làm tù binh. Tuy nhiên, sau chiến tranh, phía Thổ Nhĩ Kỳ kiên quyết khẳng định rằng họ chưa từng nhìn thấy đội quân này. 800 người lính đã bị mất tích không nằm trong danh sách những lính Anh bị tử trận, đồng thời cũng không có trong danh sách tù binh chiến tranh được Thổ Nhĩ Kỳ trao trả sau khi chiến tranh kết thúc.
Ở Trung Quốc, năm 1945, một đoàn tàu chở hàng trăm khách từ Quảng Đông đi Thượng Hải đã biến mất khỏi hành trình khi gần đến ga cuối, không để lại bất kỳ một dấu tích nhỏ nào.

Quan điểm của các học giả
Một số người cho rằng lỗ hổng thời gian thực chất là thế giới phản vật chất đang tồn tại trong vũ trụ. Họ dựa vào công thức tổng năng lượng vật chất của Einstein, theo đó tổng năng lượng vật chất có hai giá trị là chính và phụ. Vậy khi giá trị phụ xuất hiện, chúng ta cần phải làm thế nào? Nhận thức nó ra sao? Một số học giả liền đưa nó vào mối liên hệ với thế giới phản vật chất. Hiện nay, chúng ta mới hiểu biết chưa đầy một nửa vũ trụ chúng ta đang sống, là phạm vi thế giới vật chất, còn nửa kia là một hệ thống tạo thành từ phản vật chất.
Hai bộ phận này tiếp cận với nhau dưới tác động qua lại của lực hấp dẫn. Khi tiếp cận đến một mức độ nhất định, tác dụng “đổ vỡ” do thế giới vật chất và phản vật chất sinh ra sẽ tạo ra một nguồn năng lượng vô cùng lớn, tạo thành một áp lực tách đôi hai hệ thống. Theo đó, có thể thấy rằng mất tích chính là hiện tượng phát sinh khi hai hệ thống vật chất và phản vật chất tiếp cận ở mức độ cao nhất, sinh ra năng lượng tạo nên áp lực phân tách. Khi hiện tượng “đổ vỡ” kết thúc, trường lực hấp dẫn trở lại trạng thái ban đầu, hiện tượng tái hiện xảy ra.
Trong cuộc tranh cãi giữa các nhà khoa học, nhiều giả thuyết khác cũng được đưa ra. Một trong số đó là thuyết “thời gian đứng lại”. Thế giới vật chất sau khi tiến vào lỗ hổng thời gian đồng nghĩa với việc mất tích, và từ đó đi ra cũng có nghĩa là được tái hiện. Như vậy, lỗ hổng thời gian và trái đất không cùng một hệ thống, và thời gian trong “lỗ hổng” là tương đối tĩnh. Do đó dù có mất tích 3-5 năm hay vài chục năm đi nữa, người ta sẽ không có gì thay đổi so với lúc ban đầu.
Giả thuyết thứ hai được đưa ra là thuyết “thời gian ngược”, cho rằng thời gian trong lỗ hổng thời gian là quay ngược so với bình thường. Người mất tích sau khi rơi vào đó có khả năng sẽ quay ngược về quá khứ. Tuy nhiên, khi thời gian quay ngược một lần nữa, người này lại được đưa trở về thời điểm họ bị mất tích, kết quả là xảy ra hiện tượng tái hiện thần bí.
Trong thuyết thứ ba “đóng cửa thời gian”, lỗ hổng thời gian là hiện tượng tồn tại khách quan trong thế giới vật chất, không nhìn thấy và cũng không thể sờ thấy. Đối với thế giới vật chất mà con người đang tồn tại, nó vừa đóng lại vừa mở. Thỉnh thoảng khi nó mở ra một lần, sẽ có hiện tượng mất tích; mở thêm một lần nữa, người mất tích tái hiện.
Trước mắt, quanh vấn đề “lỗ hổng thời gian” vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Chưa một học thuyết nào đủ sức thuyết phục vì chưa đưa ra được những chứng cứ xác thực. Hiện tượng “mất tích - tái hiện” vẫn còn là bí ẩn đang chờ con người khám phá...
 Theo Sức Khoẻ & Đời Sống, Vnexpress

Tổng hợp phần mềm Hiren's Boot CD


  
 Bạn là kỉ thuật viên máy tính,hoặc ít ra là người am hiểu về cách bảo trì máy tính…Lúc này bạn sẽ rất cần đĩa boot cd….Đĩa boot cd được hiểu như là công cụ để người kỉ thuật viên bảo trì máy tính sữa chữa toàn bộ các sự cố xẩy ra ở máy tính bạn như phân vùng,ghost,diệt virut,chạy môi trường Mini windows XP để diệt virut có hiệu quả,…
   Các bản sau đây đã được tích hợp đầy đủ bộ công cụ cần thiết của một đĩa boot.các phiên bản 11.1 và 12.0 trên mạng trước đây thường thiếu một số công cụ quan trọng nhất của đĩa boot như:ghost 32, Magic parttion fro 8.5,….do thiếu file .uha hoặc bị xóa.Vì vậy đĩa boot cd sau đây đã khác phục điều đo. ngoài ra nó còn tích hợp thêm các công cụ,phần mêm tuy theo phiên bản của boot.
    
  Có đĩa boot trong tay,không có gì trong việc xử lí sự cố máy tính của bạn…Người thầy giáo muốn giảng được thì phải có giáo án,bác sĩ muốn chữa bệnh thì phải có thuốc và công cụ y tế,….còn kỉ thuật viên máy tính muốn hành nghề thì cần phải có đĩa boot.
    Đĩa boot sau đây là ở dạng file .ISO(hình ảnh) .Vì vậy sau khi tải về thì nối lại…sau đó được một file ISO duy nhất.Ta đem file này ghi ra đĩa CD .Công cụ để ghi ra đĩa boot tốt sẽ cung cấp dưới đây.

Phiên bản Hiren’s boot cd 11.1:

Phiên bản Hiren’s boot cd 12.0:

Phần mềm nối lại tại đây:

Chương trình ghi đĩa boot đơn giản và hiệu quả nhất tại đây:
http://www.mediafire.com/?xx89ycr8cybmu70 

Good luck ,Young be a:
 

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2013

Các nhân vật trong lịch sử Việt Nam


Lê Đức Thọ (tên thật: Phan Đình Khải; 1911 - 90)l
Lê Đức Thọ (tên thật: Phan Đình Khải; 1911 - 90), nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Quê xã Địch Lễ, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định, nay là xã Nam Vân, thành phố Nam Định. Tham gia hoạt động cách mạng (từ 1926). Gia nhập Đông Dương Cộng sản Đảng (1929). Trong thời kì hoạt động bí mật, hai lần bị bắt và bị kết án tù, lưu đầy khổ sai qua các ngục tù Nam Định, Hoả Lò, Côn Đảo, Sơn La, Hoà Bình. Sau khi ra tù, là uỷ viên Trung ương Đảng, trực tiếp phụ trách Xứ uỷ Bắc Kỳ (10.1944). Uỷ viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng (8.1945). Sau Cách mạng tháng Tám, phụ trách công tác tổ chức của Đảng. Sau toàn quốc kháng chiến, thay mặt Trung ương Đảng, tham gia Đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ vào Nam Bộ công tác (1948), phó bí thư Xứ uỷ Nam Bộ (1949). Trưởng Ban Thống nhất Trung ương (1955). Được bầu vào Bộ Chính trị và Ban Bí thư, trưởng Ban Tổ chức Trung ương Đảng (1960). Uỷ viên Quân ủy Trung ương (1967), phó bí thư Trung ương Cục Miền Nam (1968). Phụ trách công tác đấu tranh ngoại giao, cố vấn đặc biệt của đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Hội nghị Pari về Việt Nam (5.1968). Trực tiếp đàm phán với đại diện Chính phủ Hoa Kì để giải quyết hoà bình vấn đề Việt Nam, đã đi đến kí "Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam" (27.1.1973). Một trong những người trực tiếp chỉ đạo, có những đóng góp to lớn vào Chiến dịch Hồ Chí Minh( 26 - 30.4.1975). Phó chủ tịch Uỷ ban Quốc phòng của Đảng (1983). Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (12.1986 - 90). Huân chương Sao vàng, Huân chương Cách mạng tháng Mười (Liên Xô), Huân chương Ăngko (Cămpuchia). Nguồn:http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/defaul...

ImageAn Dương Vương trong tâm thức nhân dân ta
                                                                Dương Trung Quốc

"Chết thì bỏ con bỏ cháu
Sống thì không bỏ mồng Sáu tháng Giêng"
Câu ca với những lời lẽ quả quyết nhưng lại rất mộc mạc, hồn nhiên ấy là nói về tình cảm thiết tha với ngày Hội làng của dân xã Cổ Loa và 7 xã xung quanh, thuộc huyện Đông Anh, ngoại ô Hà nội. Tâm điểm của lễ hội là tòa Thành ốc (Cổ Loa) và tâm linh của lễ hội hướng về An Vương Vương. Đó là những di tích và nhân vật gắn liền với một thời đoạn lịch sử vẫn còn chất đầy huyền thoại tiếp nối thời đại các vua Hùng cũng vần vũ những đám mây ngũ sắc của những huyền thoại.
Nếu thời đại các vua Hùng còn định vị đuowjc bởi địa danh Phong Châu mà các thế hệ sau tôn phong là Đất Tổ và xây dựng ngôi Đền thờ Tổ thì tên tuổi của An Dương Vương còn lại một chứng tích vật chất đầy sức thuyết phục, cũng là chứng tích vật chất về một cái mốc đầu tiên ghi nhận Hà Nội hôm nay bao gồm cả vùng đất từng là kinh đô trước khi  Lý Công Uẩn định đô ở Thăng Long hơn một thiên niên kỷ.
Về An Dương Vương, "Từ điển bách khoa Việt Nam" viết một cách ngắn gọn: "tên thật là Thục Phán, người sáng lập và là vua nước Âu Lạc. Có giả thiết cho là thủ lĩnh người Tây Âu ở vùng núi phía Bắc đã từng xung đột với vua Hùng và cũng là người chống Tần thắng lợi (214 - 208 trước CN), nối ngôi vua Hùng, hợp nhất Tây Âu và Lạc Việt thành nước Âu Lạc, đóng đô ở Cổ Loa. Tục truyền An Dương Vương được rùa thần giúp đỡ cho móng làm lẫy nỏ rất hiệu nghiệm, nên đã đánh bại nhiều lần xâm lược của Triệu Đà. Sau đó Triệu Đà dùng mưu (cho con trai là Trọng Thủy sang cầu hôn với con gái An Dương Vương là Mỵ Châu) lấy cắp lẫy nỏ thần rồi mới đem quân sang đánh (179 trước CN) An Dương Vương thua chạy đến Nghệ An, nhảy xuống biển tự tử"
Lời giảng nghĩa ngắn ngủi ấy cố gắng khẳng định một nhân vật có thật và một thời đại có thật trong lịch sử dân tộc ta là cái gạch nối giữa thời đại các vua Hùng với những thời đại sau đó trong dòng mạch liên tục của một quốc gia tự chủ và đã tạo dựng  được một nền văn minh có bản sắc riêng biệt bên cạnh một nền văn minh lớn cũng là một mối thử thách thường trực và khủng khiếp từ phương Bắc tràn xuống. Nhưng trong lời giảng nghĩa ấy vẫn phải nhắc đến những từ "giả thiết",  "tục truyền"...
Bởi lẽ, từ nhiều thế kỷ trước trong các cuốn sách như "Viện điện u linh"; "Lĩnh Nam chích quái", "đại Việt sử ký toàn thư" hay các tác phẩm của Nguyễn Trãi (Dư địa chí). Phan Huy Chú (lịch triều hiến chương loại chí) đều nhắc tới An Dương Vương họ Thục tên Phán là con của vua Thục (đất Tứ Xuyên - Trung Quốc ngày nay) vì xung khắc của tổ phụ với Hùng Vương của nước Văn Lang mà mang quân đánh chiếm, lập nước Âu Lạc, xưng vương và xây thành Cổ Loa. Nhưng rồi cuối thế kỷ XIX, một số sử thần lại cho rằng Âu Lạc và người đứng đầu Thục Vương không dính dáng gì đến nước Ba Thục mà chỉ là một thế lực ở lân cận "gắn liền với nước Văn Lang". Sang đầu thế kỷ XX, có học giả còn cực đoan hơn khi cho rằng" nước Nam không có An Dương Vương nhà thục" (Nguyễn Văn Tố" còn một số sử gia người Pháp lại khẳng định "Trước nhà hán không có lịch sử An Nam"...
Nhưng trong tâm thức của nhiều người Việt Nam nhất là của dân "bát xã hộ nhi" (tám làng thờ cúng và tham gia tế lễ trong ngày hội ở Chùa Thượng) thì An Dương Vương chính là Vua Chủ ăn sâu vào
(Tạp chí Thăng Long Hà Nội ngàn năm - Số 4/2001)

Lê Duy Đàm (Thế Tông) (Đinh Mão 1567 – Kỉ Hợi 1599)
Vua thứ tư nhà Hậu Lê thời Trung Hưng, hoặc cũng gọi là thời Nam Bắc triều, vì có nhà Mạc đối lập, miếu hiệu Thế tông Nghị hoàng đế. Con thứ năm Lê Anh tông.
     Ông được đưa lên ngôi thời 6 tuổi, vào tháng giêng năm Quí dậu 1573; nhưng quyền bính thật sự ở trong tay Trịnh Tùng.
     Kỉ Hợi 1599, ngày 24-8 ông băng hà, mới 32 tuổi. Táng tại Hoa Nhạc lăng ở Đông Sơn, tỉnh Thanh hóa. Con thứ của ông là Duy Tân lên nối, tức Kính tông.
     Ông ở ngôi 27 năm, đổi hiệu năm 2 lần:
+ Gia Thái 5 năm.
+ Quang Hưng 22 năm.

Nguồn: Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr.  440.

Lê Duy Bang (Nhâm Thìn 1532 – Quí DậuLê Duy Bang 1573)
Vua đời thứ ba nhà Hậu Lê thời Trung Hưng  (hoặc cũng gọi là thời Nam Bắc triều, vì có nhà Mạc đối lập) miếu hiệu Anh tông Tuấn hoàng đế.
     Ông là cháu ba đời của người anh Lê Thái tổ là Lê Trừ. Sau khi Lê Trung tông (Duy Huyên mất), Trịnh Kiểm tìm được ông ở làng Bố Vệ, huyện Đông Sơn, rước về lập lên làm vua.
     Nguyên vua Trung tông mất, không con, Trịnh Kiểm toan thừa kế tự xưng làm vua, nhưng còn ngần ngại, bèn lén cho người đến Hải Dương hỏi ý kiến Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trạng Trình không đáp, mà chỉ gọi người nhà dặn bảo: “Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo mạ”. Nói xong, Trạng Trình lại ung dung đi lễ chùa, rồi bảo các chú tiểu: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”.
     Người của Trịnh Kiểm trở về thuật lại. Trịnh Kiểm hiểu ý, mới kiếm các thuộc hạ đi tìm con cháu của nhà Lê. Do đó, Lê Duy Bang được đưa về lên ngôi.
     Lê Duy Bang tức Anh tông đăng quang từ khoảng cuối năm Bính Thìn 1556, nhưng quyền chính thực sự ở trong tay Trịnh Kiểm, rồi Trịnh Tùng. Cho đến năm Nhâm Thân 1572, nhận thấy họ Trịnh càng ngày càng lọng quyền, ông bỏ ngôi, trốn về Nghệ An vào ngày 21-11. Ông bị Trịnh Tùng đuổi theo bắt lại, rồi bị giết chết trong ngày 22 tháng giêng năm Quí Dậu 1573, lúc mới 41 tuổi.
     Duy Bang ở ngôi được 16 năm, đổi hiệu 3 lần:
+ Thiên Hựu 1 năm, Đinh Tị 1557.
+ Chính Trị 14 năm, Mậu Ngọ 1558 – Tân Mùi 1571.
+ Hồng Phúc 1 năm, Nhâm Thân 1572.

Nguồn: Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 439

 Lê Duy Hội (Gia Tông (Tân Sửu 1661-Ất MãoLê Duy Hội (Gia Tông) 1675)
Vua nhà Hậu Lê, miếu hiệu Gia tông Mĩ hoàng đế, con thứ ba Lê Thần tông, em Chân tông và Huyền tông. Ông lên ngôi vua do Tây vương Trịnh Tạc sắp đặt và phụ chính. Ông lên ngôi hồi mới 10 tuổi đến năm Ất Mão thì mất, mới có 14 tuổi.
     Ở ngôi 4 năm, đổi hiệu 2 lần:
+ Dương Đức 2 năm (1672 - 1673).
+ Đức Nguyên 2 năm (1674 - 1675).
     Về đời ông, khi vua cha ông là Thần tông mất, ông mới 2 tuổi. Trịnh Tạc đem về nuôi trong phủ, sau mới đưa lên ngôi để Tạc dễ thao túng trên chính trường.

Nguồn: Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 441.

Lê Duy Hợp ( Lê Hi Tông) (Giáp Thìn 1664 –Lê Duy Hợp ( Lê Hi Tông) Đinh Dậu 1717)
Vua nhà Hậu Lê, miếu hiệu Hi tông Chương hoàng đế, con thứ tư Lê Thần tông, em Lê Chân tông, Huyền tông và Gia tông.
     Khi vua cha mất, thân mẫu ông là Trịnh thị mới có thai ông được 4 tháng. Trịnh Tạc đem về nuôi trong phủ. Anh ông là Gia tông chết, Tây vương Trịnh Tạc mới đưa ông lên nối ngôi vào ngày 12-6 năm Ất Mão 1675. Bấy giờ, ông mới 11 tuổi, quyền chính ở cả trong tay chúa Trịnh.
     Ở ngôi được 30 năm, tháng 4 năm Ất Dậu 1705, ông nhường ngôi cho con là Duy Đường mà làm Thái thượng hoàng. Đến năm Đinh Dậu 1717, tháng 4 ông mất, lúc 54 tuổi, táng tại Phú lăng, làng Phú Lâm, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
     Thời gian ở ngôi 30 năm, ông đổi hiệu năm 2 lần:
+ Vĩnh Trị 4 năm (Bính Thìn 1675 – Canh Thân 1680).
+ Chính Hòa 25 năm (Canh Thân 1680 – Ất Dậu 1705).


 Lê Duy Hựu (Lê Chân Tông) (Canh Ngọ 1630 – KỉLê Duy Hựu (Lê Chân Tông) Sửu 1649)
Vua nhà Hậu Lê, miếu hiệu Chân tông Thuận hoàng đế, con trưởng Thần tông.
     Năm Quí Mùi 1643, tháng 10 ông lên ngôi, mới 13 tuổi, Thanh Đô vương Trịnh Tráng phụ chính. Trong đời ông, vua Minh là Quế vương đóng ở Quảng Tây có sai sứ sang phong cho ông làm An Nam quốc vương.
     Năm Kỉ Sửu 1649, tháng 8 ông mất, mới 19 tuổi, táng tại Hoa Phố lăng.
ở ngôi 7 năm, hiệu năm là Phúc Thái: Tháng 10 Quí Mùi 1643 – tháng 8 Kỉ Sửu 1649.

Nguồn: Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 442.


Lê Duy Huyên (Ất Mùi 1535 Bính Thìn 1556)
Vua nhà Hậu Lê, miếu hiệu Trung tông Võ hoàng đế, con trưởng Lê Trang tông.
     Năm Mậu Thân 1548, ngày 29 tháng 1 ông lên ngôi, mới 13 tuổi. Năm sau mới bắt đầu đặt hiệu năm.
     Đến năm Bính Thìn 1556, ngày 24 tháng giêng ông mất, mới 21 tuổi. Không con, táng tại Diêm lăng, thuộc Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
     Ở ngôi 8 năm, hiệu là Thuận Bình, Kỉ Dậu 1549 – Bính Thìn 1556. Sau đó, Trịnh Tùng tìm được Lê Duy Bang đưa về lên ngôi, tức Anh tông.
Lê Duy Mật
Con thứ 11 của Lê Dụ tông, em Lê Thần tông, không rõ năm sinh, năm mất. Nhà Lê thất thế, họ Trịnh chuyên quyền, ông cùng với chú là Duy Chúc, em là Duy Thụ hợp với các tướng sĩ Phạm Công Thể, Lại Thế Tế mưu đốt kinh thành gây biến, lật đổ họ Trịnh. Thất bại, ông lại mở cuộc họp mật tại nhà chùa Xích Đà, nhưng việc bị phát giác, ông chạy thoát, rồi nhờ người thổ hào là Ngô Hưng Tạo đưa vào Thanh Hóa, đóng căn cứ ở Thạch Thành. Ông lại sai bắt Phạm Công Thể giết đi, vì ngờ  Phạm Công Thể đã phản bội tố cáo với chúa Trịnh.
     Tại Thanh Hóa, ông tôn Duy Chúc làm Minh chủ. Ít lâu, Duy Chúc mất, ông thay quyền.
     Năm Canh Thìn 1740, chúa Trịnh sai Trần Đình Cẩm, Nguyễn Bá Lân, Đặng Đình Bật vào đánh. Ông giữ vững đại bản doanh tại làng Ngọc Lâu, tự xưng là “Thiện Nam đế tử”, có Minh Quận Công làm quân sự. Ông đánh thắng nhiều nơi, truyền hịch hiểu dụ nhân dân các xứ. Khi ông chiếm đất Cao, Châu, Trấn Ninh, chúa Trịnh Sâm có sai Tham nghị Nghệ An là Nguyễn Mậu Dĩnh đem sắc thư đến Trấn Ninh dụ hàng. Ông từ khước.
     Kịp khi vị quân sư của ông là Minh Quận Công mất, quân lực của ông yếu dần. Hoàng Ngũ Phúc và Đỗ Thế Giai dọ biết tin ấy, khải trình với chúa Trịnh: “Nay Ninh Quận đã chết thì thành đế nhà Tiền Lê, Trấn Ninh có thể lấy lại được”.
     Năm Kỉ Sửu 1769, chúa Trịnh Sâm sai Thống lĩnh Nghệ An Bùi Thế Đạt, Nguyễn Phan và Hoàng Đình Thế đi đánh dẹp. Ông đóng quân ở thành Trình Quang, cứ hiểm. Nhưng bị nội công, ngoại kích nhiều lần, ông liệu thế không chống giữ được tự thiêu cùng với gia quyến mà chết.

Nguồn: Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr.

Lê Duy Phường (1729-1732) Thái tử Lê Duy Phường là con thứ của Lê Dụ Tông, cháu ngoại của chúa Trịnh Cương, được vua cha nhường ngôi năm 1729, nhưng khi Trịnh Cương mất thì ngôi vua của Duy Phường không đứng vững.
Khi Trịnh Giang lên nối ngôi chúa, tháng 8/1732 đã giáng Duy Phường xuống làm Hôn Đức Công và buộc thắt cổ chết vào tháng 9/1735.
Trịnh Giang lập con trưởng của Lê Dụ Tông là Duy Tường lên làm vua.

Lê Hi Tông (Giáp Thìn 1664 – Đinh Dậu 1717)
Vua nhà Hậu Lê, miếu hiệu Hi tông Chương hoàng đế, con thứ tư Lê Thần tông, em Lê Chân tông, Huyền tông và Gia tông.
     Khi vua cha mất, thân mẫu ông là Trịnh thị mới có thai ông được 4 tháng. Trịnh Tạc đem về nuôi trong phủ. Anh ông là Gia tông chết, Tây vương Trịnh Tạc mới đưa ông lên nối ngôi vào ngày 12-6 năm Ất Mão 1675. Bấy giờ, ông mới 11 tuổi, quyền chính ở cả trong tay chúa Trịnh.
     Ở ngôi được 30 năm, tháng 4 năm Ất Dậu 1705, ông nhường ngôi cho con là Duy Đường mà làm Thái thượng hoàng. Đến năm Đinh Dậu 1717, tháng 4 ông mất, lúc 54 tuổi, táng tại Phú lăng, làng Phú Lâm, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
     Thời gian ở ngôi 30 năm, ông đổi hiệu năm 2 lần:
+ Vĩnh Trị 4 năm (Bính Thìn 1675 – Canh Thân 1680).
+ Chính Hòa 25 năm (Canh Thân 1680 – Ất Dậu 1705).Nguồn: Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 441.

Lê Hiến Mai (Dương Quốc Chính)

Lê Hiến Mai (Dương Quốc Chính) (Mậu ngọ 1918 – Nhâm thân 1992)
Lê Hiến Mai (Mậu ngọ 1918 – Nhâm thân 1992). Tướng lãnh QĐNDVN, Thứ trưởng bộ Quốc phòng, quê xã Trạch Mĩ Lộc, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tây.
Ông tham gia cách mạng từ năm 1939 bị Pháp bắt mấy lần. Sau cách mạng tháng 8-1945 nhập ngũ đến năm 1974 được thăng quân hàm Trung tướng. Từng giữ những chức vụ quan trọng về quân sự, chính trị và chính quyền từ chính trị viên trung Đoàn đến phó bí thư xứ ủy, Bộ trưởng Bộ Thủy lợi và điện lực, Bí thư đảng ủy Quân khu 4, Ủy viên Quân ủy trung ương, Bộ ttrưởng Bộ Thương binh và xã hội kiêm chủ nhiệm ủy ban điều tra tội ác chiến tranh xâm lược của Mĩ.
Năm 1982 làm chủ nhiệm ủy ban y tế xã hội của Quốc hội , Ủy viên Ban chấp hành Trung ương ĐCSVN khóa III, IV…
Ông được Đảng và Nhà nước Việt Nam tặng Huân chương Hồ Chí Minh.
Ông mất năm 1992, thọ 74 tuổi.
Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 371.

Lê Hiển Tông (1740-1786)
Lê Hiển Tông tên huý là Duy Diêu, là ông vua trị vì lâu thứ 2 trong lịch sử phong kiến nước ta - 46 năm, và thọ 70 tuổi.
Nhờ có tài giúp đỡ của Minh Vương Trịnh Doanh nên mười năm sau đất nước trở lại bình yên, dân được an cư lạc nghiệp, được ca ngợi là thời thái bình.
Tháng Giêng năm 1764, Hiển Tông lập Duy Vĩ làm thái tử. Năm 1767 Trịnh Doanh mất, Trịnh Sâm lên thay làm nguyên soái Tĩnh Đô Vương, tháng 3 năm 1769, Trịnh Sâm truất ngôi thái tử của Duy Vĩ rồi bắt giam vào ngục. Tháng 8 năm 1769, Trịnh Sâm giả mệnh vua truất thái tử làm thứ dân rồi vẫn giam ở ngục, lập Duy Cận con thứ của Lê Hiển Tông làm thái tử.
Tháng 12/1771, Trịnh Sâm sai giết thái tử Duy Vĩ, đến tháng Giêng năm 1783 lập Duy Kỳ làm Hoàng Thái Tôn, truất Duy Cận làm Sùng nhượng công.

Lê Hoàn – Đại hành Hoàng đế (Tân Sửu 941-Ất Tị 1005)
Lê Hoàn là một viên tướng trẻ tài nǎng, đi theo Nam Việt Vương Đinh Liễn. Dù chỉ là lính thường nhưng trí dũng khác thường, tính tình phóng khoáng nên anh được cha con Đinh Bộ Lĩnh yêu mến. Tiếp đó Đinh Liễn được vua cha giao cho đặc trách công việc ngoại giao, liên tiếp đi sứ Trung Quốc để tranh thủ cảm tình với nhà Tống, ông đưa Lê Hoàn tiến cử lên vua cha, và quả nhiên viên tướng trẻ này đã được Tiên Hoàng ái mộ. Đinh Tiên Hoàng lên ngôi năm 43 tuổi, Lê Hoàn lúc này mới có 26 tuổi, vẫn còn quá trẻ. Nhưng Tiên Hoàng vẫn quyết định giao cho chàng trai một chức vụ quan trọng: làm quan thập đạo tướng quân, coi sóc mười đạo binh của cả nước. Người thanh niên, chưa đầy ba mươi tuổi, đã trở thành một đại nguyên soái của quốc gia đang thời kỳ trứng nước. 
Bản thân Lê Hoàn cũng rất phấn khởi khi nhận nhiệm vụ này. Nhiệm vụ trọng đại, nhưng ông tự xét mình có thể cáng đáng được. Cả một quá trình tôi luyện tuy không dài lắm - chưa quá mười lăm năm, ông cũng đã tích lũy được ít nhiều kinh nghiệm, hiểu biết việc quân cơ. Các ông Đinh Điền, Nguyễn Bặc vẫn phải ngầm tín phục ông, còn các tướng lĩnh giỏi giang như Phạm Cự Lượng, Trần Công Lương đã dành cho ông rất nhiều thiện cảm. Đông đảo binh sĩ ở các cơ, các đội thường tự hào được ông chỉ huy, dìu dắt, giúp cho họ lập được nhiều chiến công. Quần chúng xa gần, nghe tiếng ông, đều rất khâm phục, mặc dù họ chưa hiểu về ông nhiều lắm.
Và ngay cả ông cũng không tự biết gốc gác gia đình của mình. Ông chỉ biết có bà mẹ cô đơn, vất vả nuôi con trong hoàn cảnh túng thiếu nghèo nàn, cho đến khi ông được sáu tuổi, thì bà đã lìa bỏ cõi trần, Lê Hoàn được một người quen ở làng Mía, tên là Lê Đột nuôi làm con nuôi. Lê Đột cũng là một người khá giả trong làng. Ông đã được bà Đặng Thị, mẹ đẻ của Lê Hoàn gởi con trước khi bà mất: Lê Hoàn lúc đó dù còn bé bỏng, cũng nhận ra được là Lê Đột có cảm tình với mình. Một phần do lòng nhân ái, cám cảnh số phận hai mẹ con nhà nghèo, một phần vì thấy cậu bé mặt mũi khôi ngô, dễ thương, có vẻ lanh lợi. Chuyện kể rằng có một hôm cậu bé Lê Hoàn xay lúa xong thì nằm phục lên trên cối đá mà ngủ vào giữa đêm khuya. Lê Đột thức giấc vì thấy có ánh sáng tỏa ra dưới nhà bếp của mình, liền đi vào xem thì cảm thấy như có con rồng vàng đang che phủ lên người cậu bé. Ông thầm nghĩ cậu bé này có tướng lạ, sau này chắc sẽ làm nên sự nghiệp. Ông lặng lẽ giấu kín, không cho ai biết chuyện này, mà chỉ để tâm quí mến cậu bé hơn. Ông cho Lê Hoàn đi học. Cậu học rất thông minh, mau hiểu biết. Ngoài thời gian đi học cậu đi chăn trâu cắt cỏ, và được những trẻ mục đồng yêu mến. Ông càng tin rằng đứa con nuôi này nhất định sẽ có ngày thành đạt.
Làm con nuôi Lê Đột, Lê Hoàn nhiều lúc cũng có những băn khoăn về nguồn gốc của mình. Cha cậu là ai, ở đâu, bây giờ còn sống hay đã mất, là điều cậu không sao biết được. Cậu chỉ biết có mẹ. Mẹ cậu là bà Đặng Thị Sen người ở Kẻ Sập, sau này sách vở ghi tên là Khả Lập. Những ngày còn được mẹ nâng niu chăm sóc, Lê Hoàn còn bé quá, nên cũng không biết hỏi đến cha chú họ hàng, mãi sau này ở với Lê Đột, cũng không bao giờ được Lê Đột nhắc tới. Cậu chỉ nghe một số người trong làng nói rằng lúc mẹ đi cấy ở cánh đồng Tích Nội (đồng Trẩy), có một đóa hoa sen cứ dạt vào trước mặt bà. Bà khoát đi cố đẩy nó ra xa, nhưng nó lại dạt vào như cũ. Bà liền lấy bóc ra ăn. Không ngờ sau đó thụ thai đến 13 tháng mới sinh ra Lê Hoàn. Â'y là tất cả những gì mà Lê Hoàn biết được về cha mẹ mình. Thế rồi thời gian đã làm cho Lê Hoàn không quan tâm đến khả năng tìm hiểu lai lịch của người cha bí mật của mình. Cũng không phải quan tâm gì đến chuyện họ hàng làng nước. Đời ông đã hoàn toàn dành cho sự nghiệp chiến đấu và toàn tâm phụng sự vua Đinh. Con người hơn ông 16 tuổi này, đã có chiến công tung hoành ngang dọc, dẹp dược nội loạn, thu giang san về một mối, thực xứng đáng là một bậc anh hùng. Trong cuộc đánh dẹp các sứ quân, Lê Hoàn tỏ ra là người có tài nên được Đinh Bộ Lĩnh giao cho trông coi 2000 binh sĩ. Đến khi dẹp yên các sứ quân thống nhất đất nước, lập nên cơ nghiệp nhà Đinh. Lê Hoàn được phong chức Thập đạo tướng quân, Điện tiền đô chỉ huy sứ của triều đình Hoa Lư. Lúc này Lê Hoàn vừa tròn 30 tuổi.

Do tài năng và phẩm chất của mình, lại đang mang chức vụ là Thập đạo tướng quân, Lê Hoàn được mọi người giao trách nhiệm làm nhiếp chính cho ông vua nhỏ Đinh Toàn, mới có 6 tuổi, với danh hiệu là Vệ Vương. Bà mẹ của Đinh Toàn là Dương Thị làm Hoàng thái hậu, cùng coi việc triều chính.

Làm nhiếp chính cho một ông vua nhỏ nên Lê Hoàn phải tự mình định đoạt, giải quyết tất cả mọi vấn đề của đất nước. Ông tự xưng là phó vương, và cũng được các triều thần đồng ý. Chỉ có các ông Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp là không tán thành. Họ cho rằng Lê Hoàn đang có âm mưu cướp ngôi, nên cần phải hành động chống lại. Họ đem quân bản bộ của mình, tấn công Hoa Lư. Nhưng Lê Hoàn đã kịp thời chống lại, đốt cháy các chuyến thuyền. Tất cả ba người đều bị bắt sống, đem về hành tội.
Nghe tin Đinh Tiên Hoàng mất, Ngô Nhật Khánh dẫn quân Chiêm Thành đem hơn một nghìn chiến thuyền sang đánh nước ta. Lê Hoàn điều binh chống lại, thuyền chiến đến hai bên cửa bể Đại ác (tức Đại An, Nam Định) và Tiểu Khang (cửa Càn, Yên Mô, Ninh Bình) bị mưa bão, đều lật chìm. Ngô Nhật Khánh và quân Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền vua Chiêm chạy thoát về nước. 
Bấy nhiêu thắng lợi càng nâng cao uy tín của Lê Hoàn. Triều đình và dân chúng đều thấy rằng ông thực sự là con người lãnh đạo đất nước. Nhưng Lê Hoàn vẫn chưa hề nghĩ đến việc mình sẽ rắp ranh ngôi báu. Trong tình hình triều chính vô cùng rối ren Lê Hoàn thấy mình phải cố gắng hết sức để ổn định vương triều nhà Đinh. Ông thành thực phò tá ông vua nhỏ Đinh Toàn, giữ đúng phép tắc của một người bầy tôi trước vị vua nhỏ tuổi. Và bên cạnh Đinh Toàn còn có bà Dương Hậu. Bà không chính thức đóng vai trò nhiếp chính, nhưng vẫn phải lo chăm sóc cho con, bày vẽ cho con từ cách đi đứng, cách ngồi trên ngai vàng và ứng xử trò chuyện với trăm quan. Những lúc triều đình có việc, bà cũng phải lắng nghe, phải chờ đợi ý kiến Lê Hoàn và truyền đạt lại với con, để hiểu ý phó vương cho rõ. Trước đây, hồi Đinh Tiên Hoàng còn sống, thỉnh thoảng bà cũng có gặp Lê Hoàn vài phút thoáng qua còn bây giờ thì gần như lúc nào, bà cũng phải trò chuyện, hỏi han vị thập đạo tướng quân, lúc con bà lâm triều, cũng như lúc ra vào cung nội. 
Dương Hậu hãy còn trẻ lắm. Không rõ tên thật của bà là gì (sau này nhiều tài liệu viết bà là Dương Vân Nga, lâu ngày thành quen, chứ thực ra sử sách không ghi chính thức). Bà thuộc dòng dõi của Dương Diên Nghệ, là con gái của Dương Tam Kha, về làm vợ Đinh Tiên Hoàng, cùng với 4 bà khác đều được phong là Hoàng hậu. Những buổi gặp gỡ thân tình với vị thập đạo tướng quân oai phong, đường bệ, luôn luôn làm cho Dương Hậu xao xuyến một niềm riêng. Con người tài năng và anh hùng như thế, sao lại không thể là một chỗ dựa cho mình. Đứa con ta hiện nay đang được người chăm sóc, và bản thân ta cũng thấy người đối xử một cách khác thường. Những lời tâu thái hậu trịnh trọng, nhưng lại rất dịu dàng, hình như trong đó chứa đựng một chút gì kín đáo. Nhưng nếu... thì có gây ra những điều dị nghị gì không... Dương Hậu băn khoăn, nhưng bà cũng không dám nghĩ xa hơn nữa. Phải cố nén lòng, và hãy cùng Lê Hoàn giúp Đinh Toàn làm quen với công việc của một ông vua. Về phía Lê Hoàn, ông cũng nhận ra được cảm tình của Dương Hậu, nhưng ông vẫn luôn luôn giữ đúng tư cách của mình. Dù sao đi nữa, thì bây giờ đây, mình còn ở địa vị một kẻ bề tôi.
Còn rồi đây? Lê Hoàn cũng không dám nghĩ xa hơn nữa....
Giữa lúc ấy thì ở phương Bắc, nhà Tống lại rắp tâm thôn tính phương Nam. Tin hai cha con Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn bị giết hại, khiến cho Triều đình nhà Tống nghĩ đến cơ hội thuận lợi để tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược.
Giờ chiến tranh đã điểm. Vua Tống lại sai Lư Đa Tốn viết thư cho Lê Hoàn, vừa chiếu dụ vừa đe dọa. Lá thư này do một nhà văn đời Tống là Vương Vũ Xứng thảo, có đoạn dùng lời rất quyết liệt, bảo Lê Hoàn: "Người nên qui phục, chớ để vạ đến. Quân lính nhà vua đã chỉnh tề, trống chiêng nghiêm ngặt, theo ta thì ta tha, trái ta thì ta đánh. Chỉ có theo hay chống là lành hay dữ, người nên xét kỹ".
Trước tình thế vô cùng nghiêm trọng ấy, cả triều đình đều vô cùng lo ngại. Tiếp theo là văn thư các cấp từ Lạng Châu (Bắc Giang, Lạng Sơn) gửi về, các quan văn võ bàn ra nói vào, kẻ bảo nên đánh, kẻ nghĩ nên hàng, chưa biết quyết định ra sao. Còn ông vua nhỏ Đinh Toàn cố nhiên không biết nói năng gì, chỉ biết trông chờ vào mẹ. Dương Hậu quay lại nói với Lê Hoàn: Tình thế bức bách như vậy, tướng quân định liệu ra sao?
Lê Hoàn thản nhiên đáp:
- Xin Thái hậu, đừng quá bận tâm mà ảnh hưởng đến ngọc thể. Tôi đã được giao việc phò vua giúp nước, xin hết lòng hết sức không ngại khó khăn.
Trước thái độ đường hoàng và lập trường kiên quyết của Lê Hoàn, Dương Hậu thấy yên tâm giảm bớt điều lo lắng. Bà ân cần nói với vị tướng đầy tin tưởng:
- Đã vậy, ta thiết nghĩ tướng quân nên ra hiểu dụ ba quân, và nếu binh đội của ta chưa đủ, thì nên kịp thời cho tuyển thêm dũng sĩ trong các lộ, các châu về luyện tập, chờ ngày giao chiến với địch.
Lê Hoàn mời ngay Đinh Toàn và Dương Hậu ngự triều. Ông trình bày cho các quan văn võ nhận rõ trách nhiệm phải bảo vệ đất nước, giữ gìn cơ nghiệp. Ông cũng phân tích lợi hại giữa hai bên quân Tống và quân ta, chỉ ra rằng chúng ta chắc chắn có thể giành được thắng lợi. Ông giơ tay, dõng dạc:
- Mai ngày quân địch kéo sang, tôi xin tự thân mình đốc suất việc phòng bị và chống cự, song rất cần có những đại tướng giúp đỡ trong việc dùng binh. Xin được cử ông Phạm Cự Lượng làm đại tướng quân, đi tiền phong trong cuộc giao chiến.
Nghe Lê Hoàn tiến cử Phạm Cự Lượng, triều đình ai cũng ngạc nhiên. Phạm Cự Lượng là em Phạm Hạp, người đã cùng Nguyên Bặc, Đinh Điền khởi binh chống lại Lê Hoàn, bị Lê Hoàn đánh bại, bắt giam và xử tử. Biết đâu Phạm Cự Lượng không nung nấu một mối thù không đội trời chung với người đã chặt đứt tình anh em ruột thịt của mình. Nhưng rồi họ nghĩ lại. Quả thực Lê Hoàn là con người đại lượng, không có sự tị hiềm, biết tin tưởng vào phẩm chất người giúp việc mình. Trước tình hình gay go của đất nước, vấn đề thiết yếu nhất là phải chọn được đúng người có khả năng. Phạm Cự Lượng là đại tướng thì phải giao trách nhiệm cho xứng đáng. Dù là anh em, người nào, có chí hướng riêng của người nấy, không nên vì tội của anh, mà có thành kiến nghi ngờ với em. Lê Hoàn đã làm đúng như thế. Cả triều đình rất khâm phục ông, còn Phạm Cự Lượng lại càng kính trọng ông bội phần.
Thế rồi ngay lúc đó, Phạm Cự Lượng bước ra, tuyên bố cùng các võ tướng, các binh sĩ đang tề tựu đông đủ:
- Tôi xin có lời để ba quân cùng hay? Thưởng người có công, giết kẻ vi mệnh, đấy là phép hành binh. Nay chúa thượng ấu thơ, chúng ta tuy hết sức liều chết chống giặc ngoại xâm, may mà có chút công lao thì ai biết đến cho? Chi bằng trước hết ta hãy tôn quan thập đạo tướng quân lên làm Thiên tử, rồi sau sẽ phát binh cũng không muộn.
Tiếng ông Phạm dứt lời, tất cả các võ tướng, quân sĩ đều náo nức tung hô: Vạn tuế! Vạn tuế? Các quan văn võ trong triều ngơ ngác một phút, rồi cũng đều tung hô theo. Lê Hoàn chắc cũng xúc động bởi giây phút này, nhưng ông vẫn cảm thấy bất ngờ. Lần đầu tiên, chàng thanh niên dù đã từng trải cuộc đời mà vẫn cảm thấy lúng túng. Ông nhìn lên ngai vàng, chỗ của Đinh Toàn đang ngồi, rồi liếc sang chiếc ghế của Dương Hậu. Bà Dương cũng lúng túng một phút. Một niềm vui dâng lên trong tâm trí, bà cảm thấy như quân sĩ và trăm quan đã cởi được cho bà một sự bế tắc ấp ủ lâu nay. Thoáng nhận ra nguy tình thế, hợp với lòng mình, bà tán thành ý kiến suy tôn của mọi người. Đúng, họ nghĩ như vậy là phải. Đứa con ta tuy được nối ngôi, nhưng còn quá bé bỏng, không thể đảm đương được quốc gia Đại sự. Lê Hoàn mới là người xứng đáng ngự trị ngai vàng. Có Lê Hoàn, mới giữ vững đất nước trước họa xâm lăng. Có Lê Hoàn, binh sĩ mới giữ vững được niềm tin. Không nên cứ khư khư theo một xu hướng ích kỷ hẹp hòi, để giữ tiếng cho nhà Đinh ở ngôi hư vị. Và nếu Lê Hoàn trở thành thiên tử, địa vị của chàng khác đi, quan hệ giữa chàng với ta cũng sẽ là thuận lợi. Nghĩ đến điều này, Dương Hậu cảm thấy có chút ngượng ngùng bẽn lẽn. Nhưng bà trấn tĩnh được ngay. Bà giơ tay ra hiệu cho một người cung nữ. Cô này hiểu ngay ý của bà, vội vàng chạy vào lấy chiếc áo long bào đem ra. Dương Hậu nói nhỏ với Đinh Toàn rồi quay lại, bước tới gần Lê Hoàn, khoác chiếc áo long bào lên vai ông:
Lòng quan quân đã quyết. Kính xin chàng (tiếng chàng, Dương Hậu nói rất khẽ) chính vị ngôi tôn!
Quả nhiên, sự tính toán của Lê Hoàn là hoàn toàn chính xác. Quân Tống thất bại thảm hại, không chờ lệnh vua đã phải vội vàng rút chạy. Vua Tống trút tất cả tội lỗi lên đầu bọn tướng tá: Lưu Trừng, Giả Thực bị giết ở chợ Ung Châu. Tôn Toàn Hưng bị bắt về triều hạ ngục rồi cũng bị giết. Cuộc kháng chống Tống của nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của Lê Hoàn đã hoàn toàn thắng lợi.
Mặc dầu đã lên ngôi vua, và cũng đã bước sang giai đoạn tứ tuần, Lê Hoàn phải mang mũ áo: hoàng bào, long cổn, phải giữ một vẻ bề ngoài trịnh trọng như những con người đứng tuổi, nhưng phong thái của con người thanh niên trong ông, vẫn giữ nguyên giá trị. Ông luôn luôn tỏ ra linh hoạt, vui vẻ hòa mình với mọi người. Ông ứng phó nhanh nhẹn, lúc nào cũng sôi nổi và hào hứng. Ngay cả khi bước vào những nghi lễ ngoại giao, thù tiếp với các sứ giả nước ngoài, ông vẫn giữ tư thế ngang tàng, đôi khi cũng không cần giữ gìn tiểu tiết.
Không những quí trọng lớp trí thức là những nhà sư, Lê Hoàn cũng có con mắt biệt đãi đối với những con người tài năng khác, kể cả những người nước ngoài, không có tư tưởng kỳ thị. 
Ông vẫn đóng đô ở Hoa Lư như vua Đinh trước kia. Ông cho xây dựng nhiều cung thất. Tất nhiên việc xây dựng này đã phải chi phí rất nhiều tiền của, có phần xa xỉ, nhưng mặt khác cũng phải thấy là Lê Hoàn rất muốn cho kinh đô và cho nơi vua ở, phải được bề thế, trang trọng, khiến cho nhân dân và khách nước ngoài phải trầm trồ, thán phục, do đó mà tôn vinh uy thế của vương triều ông. Điều đặc biệt là Lê Hoàn rất chú trọng đến việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi vì ông từ nhân dân mà ra, ông đã cố gắng giữ gìn lấy những khuynh hướng tâm linh, khuynh hướng thẩm mỹ mà người nước Việt bảo lưu sâu sắc. Ông là một trong những nhà vua đầu tiên, lấy lễ để thờ Phù Đổng thiên vương, muốn bắt chước truyền thuyết các vua Hùng Vương đề cao anh hùng dân tộc.
Không có một tài liệu nào viết một cách rõ ràng và cụ thể về đời sống tình duyên của Lê Hoàn như thế nào. Ta chỉ biết Lê Hoàn cũng như vua Đinh, có rất nhiều vợ, đều được phong làm Hoàng hậu, trong đó có bà Đại Thắng Minh Hoàng hậu, tức là Dương Hậu, vợ cũ của Đinh Bộ Lĩnh. Vua Đinh mất, Dương Hậu có cảm tình với Lê Hoàn, đã khoác áo hoàng bào lên vai ông để dựng vương triều nhà Lê.
Năm Ất Tị (1005) vua Lê Hoàn mất thọ 65 tuổi, làm vua được 24 năm

Lê Hồng Sơn ( tên thật: Lê Văn Phan; bí danh: Lê Hồng Sơn, Lê Hưng Quốc, Võ Hồng Anh, Lê Tản Anh, vv.; 1899 - 1933)
Lê Hồng Sơn ( tên thật: Lê Văn Phan; bí danh: Lê Hồng Sơn, Lê Hưng Quốc, Võ Hồng Anh, Lê Tản Anh, vv.; 1899 - 1933), nhà hoạt động cách mạng Việt Nam. Quê làng Xuân Hồ, tổng Xuân Liễu, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cùng Hồ Tùng Mậu sang Thái Lan (Nà Khòn, Phì Chịt) gặp chí sĩ Đặng Tử Kính rồi sang Quảng Châu cộng tác với Phan Bội Châu. Được Phan Bội Châu cử sang Nhật gặp Cường Để (1920); ít lâu sau, trở lại Quảng Châu. Tham gia thành lập Tâm Tâm xã (1923). Cùng với Lê Huy Doãn (tức Lê Hồng Phong) và Phạm Hồng Thái mưu tính ám sát toàn quyền Pháp Meclanh (Merlin) ở khách sạn Vichtoria (Victoria), Sa Diện, Quảng Châu, song việc không thành; tham gia Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, là một trong 5 thành viên Cộng sản đoàn của Hội (1925). Gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc (1926). Tháng 4.1927, bị Tưởng Giới Thạch bắt, sau đó được trả lại tự do. Cùng với Tổng bộ, Lê Hồng Sơn tích cực chuẩn bị và chỉ đạo Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (5.1929); là đảng viên của An Nam Cộng sản đảng (1929); cùng với Hồ Tùng Mậu, tích cực giúp Nguyễn Ái Quốc tổ chức hợp nhất các tổ chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ngày 26.9.1932, bị địch bắt ở Thượng Hải và giải về nước. Toà án thực dân Pháp kết án tử hình và thi hành bản án ở Nam Đàn. Nguồn:http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/defaul...

ĐỒNG CHÍ LÊ HỒNG PHONG (1902-1942) Lê Hồng Phong (tên thật: Lê Huy Doãn; tk. Vương Nhật Dân; 1902 - 42)
, TỔNG BÍ THƯ CỦA ĐẢNG (1935-1936)
Ngày 9/2/2006. Cập nhật lúc 17h 15'
Đồng chí Lê Hồng Phong sinh năm 1902 tại tổng Thông Lạng (nay là xã Hưng Thông), huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Xuất thân trong một gia đình nông dân lao động, tại một tỉnh giàu truyền thống cách mạng, có phong trào đấu tranh chống bọn phong kiến và thực dân nổ ra liên tục như phong trào Cần Vương, tiếp đó là Việt Nam Quang Phục hội của Phan Bội Châu...

Sau khi học xong sơ học yếu lược, Lê Hồng Phong đã rời làng ra thành phố, hết Vinh lại đến Bến Thuỷ, sống cảnh làm thuê làm mướn. Chính trong thời gian này, Lê Hồng Phong tận mắt chứng kiến cuộc sống bị bóc lột, bị áp bức bất công của nhân dân lao động do bọn thực dân, phong kiến gây ra. Và chính đồng chí cũng được thể nghiệm cuộc sống đó khi với thân phận là người thợ làm thuê.

Từ năm 1924 đến 1931, sau khi đến Thái Lan một thời gian, Lê Hồng Phong cùng một số bạn bè tìm đường sang Quảng Châu, Trung Quốc vào năm 1924. Ở Quảng Châu, Lê Hồng Phong cùng một số bạn như Phạm Hồng Thái, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn, Lâm Đức Thụ trong nhóm Tâm Tâm xã đã tích cực khôi phục lại phong trào yêu nước đang bị suy yếu.

Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu. Người tiếp xúc với nhóm người Việt Nam yêu nước ở đây, lập ra tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Nguyễn Ái Quốc mở các lớp huấn luyện chính trị, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lê nin, đường lối cách mạng vô sản. Lê Hồng Phong là một trong những học trò đầu tiên của Người, được Người giác ngộ đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng vô sản.

Từ tháng 8-1924 đến hết năm 1925, Lê Hồng Phong tốt nghiệp Trường Quân sự Hoàng Phố của Chính phủ đần quốc. Đồng chí được chuyển sang Trường Hàng không ở Quảng Châu. Tại đây, tháng 2-1926, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Do học xuất sắc, đồng chí được Chính phủ Quảng Châu và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cử sang Liên Xô học từ tháng 10-1926 đến tháng 12-1927 và tốt nghiệp Trường Lý luận quân sự không quân ở Lêningrát. Sau đó, đồng chí vào học Trường Đào tạo phi công quân sự tại Bôrítxgơlépxcơ. Học chưa xong khoá, thì tháng 10-1928, đồng chí được cử về học ở Trường Đại học Cộng sản Phương Đông. Ở đây, đồng chí trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Liên Xô và tham gia trong Uỷ ban tổ chức Đảng nhóm Đông Dương. Sau ba năm học, đồng chí tốt nghiệp Trường Đại học Cộng sản Phương Đông. Đồng chí vào học tiếp năm thứ nhất nghiên cứu sinh, đang học đờ dang thì tháng 11-1931, đồng chí được cử về nước để tham gia công tác của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Sau một thời gian dài được học tập và tham gia các tổ chức cách mạng ở nước ngoài, Lê Hồng Phong là nhà hoạt động cách mạng được tích luỹ tri thức lý luận chính trị và quân sự tương đối hoàn chỉnh nhất lúc bấy giờ. Cách mạng Việt Nam lúc này ở vào một thời điểm khó khăn, sau cao trào cách mạng 1930- 1931 bùng nổ mãnh liệt, thực dân Pháp thực hiện thủ đoạn khủng bố dã man, kéo dài liên tục từ cuối năm 1930 đến năm 1935.

Từ sau cao trào Xô viết Nghệ - Tĩnh đến năm 1935 phần lớn các tổ chức của Đảng bị tan rã hoặc tê liệt do chính sách đàn áp của thực dân Pháp. Mối liên hệ giữa các cơ quan Trung ương Đảng và đảng bộ địa phương, ngay giữa các cơ sở đảng trong một địa phương cũng bị chia cắt. Toàn bộ Ban Thường vụ và một số uỷ viên Trung ương Đảng, cán bộ xứ uỷ, tỉnh uỷ..., nhiều người cũng bị bắt và bị giết hại. Các lãnh tụ và những cốt cán của Đảng, từ Nguyễn Ái Quốc đến Trần Phú, Nguyễn Phong Sắc, Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh,... bị bắt, bị truy nã hoặc bị kết án tử hình. Tình hình trên đòi hỏi việc khôi phục phong trào cách mạng, khôi phục Đảng là một nhiệm vụ lịch sử bức xúc của sự nghiệp giải phóng nhân dân ta.

Từ Liên Xô, Lê Hồng Phong lên đường về nước vào cuối năm 1931. Việc cần thiết là phải định hướng cho phong trào hoạt động. Lê Hồng Phong đã tham gia soạn thảo Chương trình hành động của Đảng, được Quốc tế Cộng sản thông qua.

Chương trình hành động của Đảng là ngọn đèn pha soi sáng con đường đi tới của cách mạng, có tác đụng đoàn kết, tập hấp lực lượng xung quanh hạt nhân lãnh đạo là Đảng Cộng sản.

Chương trình hành động của Đảng đã có tác dụng củng cố Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhanh chóng khôi phục phong trào cách mạng, đưa cách mạng Việt Nam bước vào giai đoạn mới.

Tháng 7-1933, Lê Hồng Phong bí mật về Cao Bằng làm việc với Tỉnh uỷ nhằm xây dựng Cao Bằng thành căn cứ vững mạnh để chắp nối liên lạc, phát triển phong trào cách mạng khắp cả nước. Dưới sự chỉ đạo của đồng chí, hệ thống cơ quan lãnh đạo tỉnh uỷ, thành uỷ… Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước được khôi phục.

Lúc này, các tổ chức Đảng bắt đầu được củng cố; phong trào đấu tranh của quần chúng lên cao, tất yếu đòi hỏi sự lãnh đạo của Đảng phải tập trung, thống nhất và chặt chẽ.

Tháng 3-1934, Ban Chỉ huy ở ngoài được thành lập, có chức năng như một Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng ở nước ngoài gồm 3 người do đồng chí Lê Hồng Phong làm Bí thư, Hội nghị quyết định sẽ tổ chức Đại hội lần thứ I của Đảng vào năm 1935 và phải xúc tiến thành lập các xứ uỷ trước Đại hội.

Chưa kịp tổ chức Đại hội thì đồng chí Lê Hồng Phong được triệu tập đi dự Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản.

Tại Đại hội, Lê Hồng Phong thay mặt Đảng ta đã trình bày bản tham luận về tình hình Đông Dương, về phong trào cách mạng, về chính sách cai trị tàn bạo của thực dân Pháp, về những ưu và khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo của Đảng. Với sự kiểm điểm chân thành và nghiêm túc, đồng chí chứng minh triển vọng rộng lớn của phong trào cách mạng Đông Dương.

Đại hội đã bầu Lê Hồng Phong làm Uỷ viên chính thức Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản và công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là phân bộ chính thức của Quốc tế Cộng sản.

Tháng 3-1935, Đại hội lần thứ I của Đảng họp tại Ma Cao. Đại hội đề ra ba nhiệm vụ chủ yếu trước mắt: củng cố và phát triển Đảng; tranh thủ tập hợp rộng rãi quần chúng; chống chiến tranh đế quốc Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương, trong đó có Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên, Hoàng Đình Giong. Đồng chí Lê Hồng Phong là người đứng đầu Ban Chấp hành Trung ương.

Tháng 6-1939, đồng chí Lê Hồng Phong bị mật thám Pháp bắt tại Sài Gòn. Hết hạn tù, để đề phòng đồng chí tham gia hoạt động, chúng trục xuất về quê nhà ở Nghệ An để quản thúc và giám sát. Năm 1939 là năm địch kiểm soát rất gắt gao. Vượt qua điều kiện ngặt nghèo đó, đồng chí Lê Hồng Phong vẫn tiếp tục viết báo, chiến đấu trên mặt trận chính trị, lý luận.

Năm 1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Lo sợ trước phong trào cách mạng dâng cao, thực dân Pháp tăng cường đàn áp. Tháng l-1940, chúng bắt giam Lê Hồng Phong tại quê, rồi giam vào Khám Lớn Sài Gòn, cuối năm 1940, chúng đày đồng chí ra Côn Đảo. Trước những đòn tra tấn dã man, liên tục của địch, đồng chí vẫn nêu cao chí khí cách mạng, không khai báo một lời. Chúng hành hạ đồng chí cho đến kiệt sức. Trước khi trút hơi thở cuối cùng vào trưa ngày 6-9-1942, đồng chí nhắn lại: “Nhờ các đồng chí nói với Đảng rằng, tới giờ phút cuối cùng, Lê Hồng Phong vẫn tin tưởng vào thắng lợi vẻ vang của cách mạng”.


Lê Huyền Tông (1663-1671)
Lê Huyền Tông tên huý là Duy Vũ, con thứ của Lê Thần Tông, em của Lê Chân Tông, được lập làm vua mới 9 tuổi, ở ngôi vua được 8 năm, ngày 15 tháng 10 năm Tân Hợi - 1671, Lê Huyền Tông mất mới 18 tuổi, chưa có con nối.



Lê Khả Phiêu (sinh 1931)
Lê Khả Phiêu (sinh 1931), nhà hoạt động quân sự, chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Quê xã Đông Khê, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hoá. Tốt nghiệp các lớp cao cấp quân sự, chính trị tại Học viện Quân sự cao cấp và Học viện Chính trị - Quân sự. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam (1949), gia nhập Quân đội nhân dân Việt Nam (1950); làm nhiệm vụ quốc tế ở Lào, Cămpuchia; tham gia Chiến dịch Hoà Bình 1951, Tổng tiến công Mậu Thân 1968, Chiến dịch
Đảng thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng (6.1992), uỷ viên Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (1.1994). Uỷ viên thường vụ, thường trực Bộ Chính trị (6.1996). Tại Hội nghị IV Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (12.1997), được bầu làm tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, bí thư Đảng uỷ Quân sự Trung ương. Đại biểu Quốc hội khoá IX, X.
Tác phẩm chính: "Đảng lãnh đạo quân đội là nguyên tắc cơ bản, nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta" (1995), "Quốc phòng, an ninh trong công cuộc đổi mới đất nước" (1997), "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" (2000), "Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường Đảng ta và nhân dân ta tiến vào thế kỉ 21" (2000).
Được nhà nước tặng 4 huân chương Quân công, 7 huân chương Chiến công, 2 huân chương Kháng chiến và nhiều huân huy chương khác. Được Nhà nước Lào, Campuchia, Cuba tặng các huân chương cao quý.


Lê Kính Tông (1600-1619)


Lê Kính Tông tên huý là Duy Tân, con thứ của Lê Thế Tông, ngày 27 tháng Tám năm Kỷ Hợi - 1599 được Trịnh Tùng lập làm vua, khi đó mới 11 tuổi.
Từ đầu thế kỷ 17, sau khi đánh tan nhà Mạc, giành lại được kinh đô Đông Đô (dư đảng nhà Mạc phải rút lên Cao Bằng) quyền lực của Trịnh Tùng ngày càng lớn, triều đình chỉ biết phục vụ nhà chúa.
Trước tình hình đó, vua Lê Kính Tông cùng với Trịnh Xuân - con thứ của Trịnh Tùng - mưu giết Trịnh Tùng. Việc bại lộ, Trịnh Xuân bị bắt giam, còn Kính Tông bị bức thắt cổ chết vào ngày 12 tháng Năm năm Kỷ Mùi - 1619.
Lê Kính Tông ở ngôi được 19 năm, thọ 32 tuổi.

Lê Lai (? - 1419)
Lê Lai (? - 1419), danh tướng trung dũng trong cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn chống quân Minh (Trung Quốc) (1418 - 1427). Có sách chép là Nguyễn Thân, sau phò Lê Lợi, đổi tên là Lê Lai. Quê làng Dựng Tú (Kiên Thọ, Ngọc Lặc, Thanh Hoá), dân tộc Mường. Đã cùng các em và con tham gia Khởi nghĩa Lam Sơn từ đầu. Là người đứng tên thứ hai trong danh sách hội thề Lũng Nhai (1416) chuẩn bị khởi nghĩa, ông cùng Bình Định vương và 17 tướng lãnh tâm phúc thề sống chết có nhau, được Lê Lợi trao chức Đô tổng quản, tước quan Nội Hầu. Cuối 1418, nghĩa quân bị bao vây ở núi Chí Linh (miền Tây Thanh Hoá). Ông đóng giả làm Lê Lợi xông ra phá vòng vây, hi sinh để Lê Lợi và nghĩa quân được giải thoát.
Nhớ công ơn Lê Lai, sau khi lên ngôi, Lê Lợi truy tặng ông là Đệ nhất công thần. Năm 1429, được truy phong là thái úy. Đời Nhân Tông, truy tặng là Bình chương quân quốc trọng sự (1443). Đời Thánh Tông, được truy tặng Thái phó, truy phong Trung túc vương. Lê Lợi thường nói: sau này ta mất đi, khi đến lễ giỗ ta, thì một ngày trước đó, phải cúng tế Lê Lai. Trong dân gian còn truyền tụng câu: "Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi".
Lê Lai là con của Lê Kiều người thôn Dựng Tú, sách Đức Giang, huyện Lương Giang (Thanh Hóa). Lê Lai tham gia với Lê Lợi ngay từ buổi đầu và từng là một thành viên trong Hội thề Lũng Nhai.
Lê Lai tính cương trực, dung mạo khác thường, chí khí cao cả lẫm liệt, lo việc hầu cận cho vua Thái Tổ rất chu đáo, công lao rõ rệt. Mùa đông năm Bính Thân (1416), vua Thái Tổ cùng 18 vị tướng cận thần của nhà vua, liên danh hội thề, nguyện sống chết có nhau, ông cũng dự trong số đó, ông được trao chức Tổng quản phủ Đô tổng quản, tước quan Nội hầu. Năm Mậu Tuất (1418), lúc vua mới dựng cờ khởi nghĩa, tướng ít, quân thiếu, bị tướng nhà Minh vây đánh ở Mường Một, vua chạy thoát, về đóng ở Trịnh Cao, nơi hẻo lánh, không dân ở, tướng Minh chia quân chặn những nơi hiểm yếu, tình thế rất cấp bách, nhà vua hỏi các tướng: “Ai dám đổi áo thay ta đem quân ra đánh giặc, xưng danh hiệu của ta, bắt chước Kỷ Tín đời Hán, để cho ta có thể giấu tiếng, nghi binh, tập hợp tướng sĩ, mưu tính cuộc nổi dậy về sau”.
Các tướng đều không ai dám hưởng ứng. Riêng Lê Lai đứng dậy nói: “Tôi xin đi. Sau này lấy được nước thì nghĩ đến công lao của tôi, khiến cho con cháu muôn đời được nhớ ơn nước, đó là nguyện vọng của tôi”.

Nhà vua rất thương cảm. Ông nói: “Bây giờ nguy khốn thế này, nếu ngồi giữa mảnh đất nguy hiểm, vua tôi đều bị tiêu diệt, sợ sẽ vô ích, nếu theo kế này, may ra có thể thoát được. Kẻ trung thần chết vì nước nào có tiếc gì”. Nhà vua vái trời mà khấn rằng: “Lê Lai có công đổi áo, sau này tôi và con cháu tôi cùng con cháu các tướng tá công thần, nếu không nhớ đến công lao ấy, thì xin cho cung điện biến thành rừng núi, ấn báu thành cục đồng, gươm thần biến thành dao cùn”. Ông bèn dẫn hai con voi và 500 quân, kéo thẳng đến trại giặc khiêu chiến. Giặc dốc hết quân ra đánh, ông cưỡi ngựa tốt, xông thẳng vào giữa trận, hô to lên rằng: “Chúa Lam Sơn chính là ta đây”, rồi đánh giết được rất nhiều quân giặc. Khi đã kiệt sức, ông bị địch bắt xử cực hình...”.

Vua cảm động về lòng trung nghĩa của ông, trước hết sai người ngầm tìm di hài ông đem về mai táng ở Lam Sơn. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1428), phong ông là công thần hạng nhất, tặng là “Suy trung đồng đức Hiệp mưu bảo chính Lũng Nhai công thần” hàm thiếu úy, thụy là Toàn Nghĩa. Tháng 12 năm sau, nhà vua sai Nguyễn Trãi, viết hai bản lời thề ước trước và lời thề nhớ công của Lê Lai, để vào trong hòm vàng, lại gia phong cho ông hàm thái úy. Năm Thái Hòa thứ nhất (1443), ban tặng là Bình Chương quân quốc trọng sự, ban cho túi kim ngư, ấn vàng (kim phù) tước Huyện thượng hầu. Đầu niên hiệu Hồng Đức (1470), tặng là Diên phúc hầu, đến năm thứ 15 (1484), truy tặng là Thái úy Phúc Quốc công về sau gia phong Trung túc vương”.

Hy sinh cho sự an toàn của chủ tướng, cho sự bảo toàn của Bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn đó là sự hy sinh vì đại nghĩa, một việc làm đại nghĩa lẫm liệt thay Lê Lai, sử sách đời đời ghi công danh tất cả vì nước của ông. Lê Lai xứng đáng là người mà danh thơm truyền tụng đến muôn đời.
 THÁI GIA THƯ
Lê Lợi
Lê Thái Tổ (tên thật: Lê Lợi; 1385 - 1433), anh hùng dân tộc, lãnh tụ cuộc Khởi nghĩa Lam Sơn, giải phóng đất nước khỏi sự đô hộ của nhà Minh, vị vua khai sáng nhà Hậu Lê. Sinh ngày 6.8 năm Ất Sửu, tức ngày 10.9.1385 tại quê mẹ (Trịnh Thị Ngọc Hương) ở làng Chủ Sơn, huyện Lôi Dương, nay là Thọ Xuân, Thanh Hoá. Tổ 3 đời của Lê Lợi là Lê Hối vốn làm nghề dạy học. Lê Hối dời nhà đến Lam Sơn (xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân, Thanh Hoá) lập nghiệp, Lê Lợi thừa nghiệp của ông (Lê Đinh) và cha (Lê Khoáng) trở thành một hào trưởng lớn vùng Lam Sơn. Lê Lợi vừa lớn lên đã chứng kiến sự xâm lược của đế chế Minh hùng mạnh và cuộc kháng chiến thất bại của nhà Hồ.
Trong những năm đầu thời thuộc Minh, Lê Lợi nung nấu một ý chí kiên cường, một hoài bão lớn diệt giặc cứu nước. Đầu năm Bính Thân (1416), Lê Lợi với 18 người cùng tâm huyết và chí hướng trong đó có Nguyễn Trãi, tổ chức hội thề ở Lũng Nhai, chuẩn bị về tổ chức và lực lượng cho cuộc khởi nghĩa. Anh hùng, hào kiệt từ bốn phương bí mật kéo về Lam Sơn tụ nghĩa. Đầu năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi giương cao cờ nghĩa, tự xưng Bình Định Vương, phát động Khởi nghĩa Lam Sơn. Từ tháng 10.1424, khởi nghĩa Lam Sơn chuyển hướng chiến lược, vào xây dựng căn cứ chiến lược ở Nghệ An, rồi phát triển ra Bắc và trở thành cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc quy mô cả nước.
Tháng 11.1426, sau gần 9 năm chiến đấu gian khổ, từ một đội quân du kích nhỏ bé, nghĩa quân đã trở thành một đội quân hùng mạnh. Sau một loạt chiến thắng vang dội (Tốt Động - Chúc Động, Chi Lăng - Xương Giang) và đánh tan 2 đạo quân Minh tiếp viện, với kế sách vừa bao vây, vừa thuyết phục dụ hàng, Lê Lợi đã buộc quân Minh cố thủ trong thành Đông Quan phải cam chịu thất bại, rút quân về nước. (Nguồn:http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/defaul...)
Lê Long Đĩnh (1005-1009)
Niên hiệu: Ư'ng Thiên (1006-1007); Cảnh Thuỵ (1008-1009)
Long Đĩnh là người bạo ngược, tàn ác như Kiệt, Trụ ở bên Tàu. Khi đã giết anh, chiếm được ngôi vua, Long Đĩnh càng tàn  bạo. Vua hay lấy việc giết làm trò chơi. Có những toịo nhân phải tội hình, vua cho lấy rơm tẩm dầu quấn vào người rồi đốt cho chế. Có trường hợp vua cho tù trèo lên cây cao rồi sai người chặt gốc cây đổ. Vua còn bỏ ngưòi vào sọt rồi đem thả xuống sông. Vua thích chí ngồi xem đao phủ thực hiện mệnh lệnh ác độc của mình. Có lần vua lấy mía để lên đầu nhà sư mà róc vỏ, thỉnh thoảng vờ nhỡ tay bổ dao vào đầu sư chảy máu, trông thấy thế vua thích thú vui cười. Vào các buổi chầu, vua cho tên hề nói khôi hài, hay nhại lại lời tâu bầy của các đại thần để gây cười. Vì sống dâm dục quá độ, vua mắc bệnh không ngồi được. Bởi vậy đến buổi chầu, vua cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Ngoạ Triều.
Long Đĩnh làm vua được 2 nǎm đổi niên hiệu là Cảnh Thuỵ. Nǎm sau (1009) thì mất, làm vua được 4 nǎm, thọ 24 tuổi.
Long Đĩnh mất, con tên là Sạ còn bé, đình thần nhân dịp tôn Lý Công Uẩn lên làm vua, khởi dựng sự nghiệp triều Lý hiển hách. Triều Lý và các triều đại tiếp theo sẽ được giới thiệu ở phần - Các triều đại Việt nam từ thế kỷ 11 đến thời kỳ thuộc Pháp.

Lê Long Việt (Quí Mùi 938 - Ất Tị 1005)
Lê Long Việt – Lê Trung Thông (Quí Mùi 938 - Ất Tị 1005)
Vua nhà Tiền Lê, có tên húy khác nữa là Huyên, miếu hiệu Trung tông.
Ông là con thứ ba Đại Hành hoàng đế Lê Hoàn. Khi trước ông đã được vua cha định cho nối ngôi (ngôi Thái tử đáng lý thuộc về Lê Ngân Tích), nhưng sau khi vua cha mất đi, các anh em ông đánh nhau tranh ngôi. Cầm đầu là Đông Thành vương Lê Ngân Tích, Trung Quốc vương Lê Long Cảnh, Khai Minh vương Lê Long Đỉnh.
Đánh nhau trong 7 tháng, đến tháng 10 năm Ất Tị 1005, ông mới được tôn vương, song chỉ được 3 ngày thì bị giết, mới 22 tuổi. Long Đỉnh nối ngôi tức Lê Ngọa Triều , còn Đông Thành vương Lê Ngân Tích thì bỏ trốn.Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 471-472.
Lê Mẫn Đế (Chiêu Thống, 1787-1788)
(tên huý: Duy Khiêm, Duy Kỳ;Lê Chiêu Thống 1765 - 1793)
tên huý: Duy Khiêm, Duy Kỳ; 1765 - 93), vua cuối cùng của nhà Hậu Lê. Cháu nội vua Lê Hiển Tông, con của thái tử Duy Vĩ, bị Trịnh Sâm giam cầm hơn 10 năm. Năm 1786, quân Tây Sơn ra Bắc lần thứ nhất diệt Trịnh, Lê Hiển Tông mất, Lê Chiêu Thống được đưa lên làm vua. Tính khí nhu nhược. Bị Trịnh Bồng lấn áp, Lê Chiêu Thống gọi Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An ra phò giúp. Năm 1787, khi quân Tây Sơn ra Bắc lần thứ hai diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống phải trốn chạy, cho người sang cầu cứu nhà Thanh (Trung Quốc). Tết Kỉ Dậu (1789), Quang Trung đại phá quân Thanh, Lê Chiêu Thống chạy theo Tôn Sĩ Nghị sang Trung Quốc sống lưu vong, bị bạc đãi, chết ở Yên Kinh.
Lê Nghi Dân (Kỉ Vị 1439 – Canh Thìn 1460)
Lê Nghi Dân (Kỉ Vị 1439 – Canh Thìn 1460).
Thái tử, con lớn Lê Thái tông và cung phi Dương Thị Bí.
Năm Canh thân 1440, ông được lập làm Thái tử, nhưng vì mẹ kiêu hoạnh bị giám chức, ngôi Thái tử chưa nhất định. Năm sau 1441, tháng 6, cung phi Nguyễn Thị Anh sinh hoàng tử Bang Cơ, đến tháng 11 thì Bang Cơ được lập làm Thái tử, ông phải truất làm Lạng Sơn vương.
Thái tông mất, Bang Cơ lên nối tức Nhân tông. Kỉ mão 1459, tháng 10 đêm 3 rạng 4 ông đồng mưu với Lê Đắc Ninh, Phạm Đồn, Phan Ban và Trần Lăng dẫn quân trèo thành vào giết Nhân tông và Thái hậu, rồi ngày 7 tự lên ngôi, đổi hiệu năm là Thiên Hưng, cho sứ sang Trung Quốc cầu phong. Cải phong Bình Nguyên vương Lê Tư hành làm Gia vương.
Ông sát hại các bề tôi cũ, nên lòng người không phục. Canh Thìn 1460, tháng 6 ngày các đại thần Nguyễn Xí, Dinh Liệt mưu chém Phạm Đồn, Phan Ban ở giữa nghị sự đường, rồi đóng cửa thành, bắt được ông. Đinh thần tuyên án xử giảo, ông bị thắt cổ chết, mới 21 tuổi.
Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 484.
Lê Nhân Tông (Bang Cơ, 1442-1459)
Lê Nhân Tông tên huý là Bang Cơ, con thứ của Lê Thái Tông, sinh ngày 9 tháng 6 năm Tân Dậu - 1441. Ngày 16 tháng 11 năm Tân Dậu - 1441 được lập là Hoàng Thái tử, ngày 12 tháng 8 năm Nhâm Tuất - 1442 lên ngôi vua đổi niên hiệu là Thái Hoà. Lúc đó Lê Nhân Tông mới 2 tuổi, Thái hậu Tuyên Từ phải buông rèm nhiếp chính.
Tháng 11 năm Quý Dậu - 1453, vua 12 tuổi, Thái hậu trả quyền chính cho vua rồi lui về ở cung riêng. Vua đổi niên hiệu là Diên Ninh, đại xá cho thiên hạ. Người đời bấy giờ ca ngợi tài năng và đức độ của vua.
"Đại Việt sử ký toàn thư" ghi: "Vua tuổi còn thơ ấu đã có thiên tư sáng suốt, vẻ người tuấn tú, đàng hoàng, dáng điệu nghiêm trang, sùng đạo Nho, nghe can gián, thương người làm ruộng, yêu nuôi muôn dân, thực là bậc vua giỏi, biết giữ cơ đồ, không may bị cướp ngôi, giết hại. Thương thay!".
Trước kia, Dương Thị Bí là mẹ Nghi Dân có tội với Lê Thái Tông, nên Nghi Dân không được lập làm thái tử, mới ngầm chứa mưu gian nhòm ngó ngôi báu, cùng bọn đồng đảng là Phạm Đồn, Phan Ban, Trần Lăng cầm đầu bọn vô lại côn đồ, đêm ngày 3 tháng 10 năm Kỷ Mão - 1459 bắc thang chia làm ba đường, trèo thành cửa Đông, lẻn vào cung cấm giết chết vua Lê Nhân Tông và Tuyên Từ Hoàng thái hậu.
Lê Nhân Tông bị giết chết lúc mới 19 tuổi, làm vua được 17 năm.
Nghi Dân tự lập làm vua, nhưng chỉ 8 tháng sau lại bị các đại thần là Nguyễn Xí, Đinh Liệt xướng nghĩa giết bọn phản nghịch, giáng Nghi Dân xuống tước hầu, rồi lập Hoàng tử Tư Thành lên làm vua, đó là Lê Thánh Tông.
Lê Phụ Trần
Lê Phụ Trần là danh tướng đời Trần Thái Tông, không rõ năm sinh, năm mất. Có sách chép nguyên tên là Lê Tần, hoặc Lê Tân Trần, sau được Trần Thái tông ban tên là “Phụ Trần” để tưởng thưởng công lớn trong cuộc kháng Nguyên giữ nước.
Ông người ở Ái Châu (Thanh Hóa), làm Ngự sử trung tướng. Đinh Tị 1257, ông nổi tiếng trong nhiệm vụ bảo giá Thái tông lui quân sang sông Lô, kháng cự mãnh liệt với quân Nguyên. Yên giặc, Thái tông phong ông làm Ngự sử Đại phu, gả bà hoàng hậu cũ là Lý Chiêu Hoàng cho ông.
Sau đó, ông lãnh mệnh đi sứ nhà Nguyên bàn về việc triều cống, thông hảo. Khi về thăng làm Thủy quân đại tướng công. Đời Thánh tông năm Giáp Tuất 1274 thăng chức Thiếu sư, kiêm việc dạy dỗ Đông cung Thái tử, đến đời Nhân Tông, ông mất.
Kể ra công lao ông đáng được ca tụng. Tuy nhiên, về việc vua Trần đem gả Chiêu Thánh công chúa (Lý Chiêu Hoàng) cho ông, khiến ông chẳng khỏi miệng đời cười chê.
Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 489.

Lê Qúy Đôn ( Bính Ngọ 1726 – Giáp Thìn 1784)
Lê Quí Đôn ( Bính Ngọ 1726 – Giáp Thìn 1784)
Nhà văn hoá, sử gia lớn Việt Nam thời Hậu Lê. Thuở nhỏ tên là Lê Danh Phương, sau đổi là Quý Đôn. Quê làng Duyên Hà, huyện Duyên Hà, nay là Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng lâu đời. Thuở nhỏ ông nổi tiếng thông minh, có trí nhớ phi thường nên được mọi người gọi là thần đồng.
Năm Qúi Hợi 1743 đỗ giải nguyên năm 17 tuổi, hội nguyên năm 26 tuổi và thi đình đỗ bảng nhãn. Năm 1752 đỗ nhất giáp tiến sĩ (Bảng nhãn). Giữ chức thị giảng Viện hàn lâm và Viện quốc sử (1757), lãnh chức phó sứ sang triều nhà Thanh (Trung Quốc) (1760).
Học vấn uyên bác và tài ứng đối của ông đã làm cho các triều thần nhà Thanh và sứ thần Triều Tiên kính trọng. Sau khi về nước, ông làm đốc đồng Kinh Bắc, tham chính Hải Dương, tư nghiệp Quốc Tử Giám, kiêm trông coi việc biên soạn quốc sử (1767) và được thăng chức bồi tụng ở Phủ chúa; hiệp trấn Thuận Hoá và tham tụng Thăng Long (1776); hiệp trấn Nghệ An (1783).
Khi mất, được truy tặng hàm thượng thư Bộ Công. Lê Quý Đôn đọc rộng, biết nhiều, trước tác bao gồm nhiều lĩnh vực. Là người Việt Nam đầu tiên biết đến lí thuyết quả đất tròn gồm bốn châu (Á, Âu, Phi, Mĩ), người sớm nhất lưu ý đến một số vấn đề khoa học tự nhiên. Về vũ trụ học, đề xuất thuyết "lí khí"; về trị nước, chủ trương "đức trị" đi đôi với "pháp trị", trọng dụng nhân tài. Có nhiều công trình nghiên cứu, biên soạn, sáng tác.
Theo thống kê chưa đầy đủ, số lượng các tác phẩm gồm khoảng 40 bộ (nay còn lại gần một nửa). Đáng chú ý nhất là các tác phẩm về triết học: "Thánh mô hiền phạm lục", "Quần thư khảo biên", " Dịch kinh phu thuyết"; về lịch sử: "Đại Việt thông sử", "Quốc sử tục biên"; về khảo cứu: "Phủ biên tạp lục", "Kiến văn tiểu lục", "Vân đài loại ngữ"; về sáng tác: "Bắc sứ thông lục", "Quế Đường thi tập"; về sưu tập: "Toàn Việt thi lục". Nguồn:Thư viện Trung tâm sưu tầm và tập hợp.
Lê Thái Tổ (Lê Lợi, 1428-1433)
Lê Lợi sinh ngày 6 tháng Tám năm Ất Sửu - 10/9/1385, là con trai thứ 3 của ông Lê Khoáng và bà Trịnh Thị Thương, người ở hương Lam Sơn, huyện Lương Giang, trấn Thanh Hoá. Ngay từ khi còn trẻ, Lê Lợi đã tỏ ra là người thông minh, dũng lược, đức độ hơn người, dáng người hùng vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai phải có nốt ruồi đỏ lớn, tiếng nói như chuông, bậc thức giả biết ngay là người phi thường.
Lớn lên, ông làm chức Phụ đạo ở Khả Lam, ông chăm chỉ dùi mài đọc sách và binh pháp, nghiền ngẫm thao lược, tìm mời những người mưu trí, chiêu tập dân lưu tán, hăng hái dấy nghĩa binh, mong trừ loạn lớn.
Mùa xuân năm Mậu Tuất - 1418, Lê Lợi đã cùng những hào kiệt đồng chí hướng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Bùi Quốc Hưng, Lưu Nhân Chú v.v... phất cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên đánh giặc cứu nước.
Suốt 10 năm nằm gai nếm mật, vào sinh ra tử, Lê Lợi đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi.
Sau hội thề Đông Quan, ngày 29/12/1427, bại binh của giặc bắt đầu được phép rút quân về nước an toàn, đến ngày 3/1/1428, bóng dáng quân Minh cuối cùng đã bị quét sạch khỏi bờ cõi.
Ngày 15 tháng Tư năm Mậu Thân - 1428, Lê Lợi chính thức lên ngôi Vua tại điện Kính Thiên xưng là "Thuận Thiên thừa vận, Duệ Văn Anh Vũ Đại Vương" đặt tên nước là Đại Việt, đóng đô ở Đông Đô (Hà Nội) đại xá thiên hạ, ban bố "Bình Ngô đại cáo" - đây chính là "Tuyên ngôn độc lập" lần thứ 2 của tổ quốc ta. Bình Ngô đại cáo mở đầu ghi:
"... Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Xét như nước Đại Việt ta,
Thực là một nước văn hiến
Cõi bờ sông núi đã riêng
Phong tục Bắc Nam cũng khác..."
"Bình Ngô đại cáo" do Nguyễn Trãi thảo là một thiên anh hùng ca tuyệt vời, bất hủ, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, truyền thống quật cường, bất khuất của dân tộc ta.
Trong Đại Việt sử ký toàn thư có ghi lời bàn: "Lê Thái Tổ từ khi lên ngôi đến khi mất, thi hành chính sự, thực rất khả quan, như ấn định luật lệnh, chế tác lễ nhạc, mở khoa thi, đặt cấm vệ, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện, thu thập sách vở, mở mang trường học... cũng có thể gọi là có mưu kế xa rộng, mở mang cơ nghiệp..."
Lê Thái Tổ mất ngày 22 tháng Tám năm Quý Sửu - 1433, hưởng thọ 49 tuổi, táng ở Vĩnh Lăng tại Lam Sơn, Thanh Hoá, trị vì được 5 năm.
Lê Thái Tông (Nguyên Long, 1433-1442)
Lê Thái Tông tên huý là Nguyên Long, sinh ngày 20 tháng 11 năm Quý Mão - 1423, là con thứ hai của Lê Lợi và bà Phạm Thị Ngọc Trần, lên ngôi vua ngày 8 tháng 9 năm Qúy Sửu - 1433, lấy niên hiệu là Thiệu Bình.
"Đại Việt sử ký toàn thư" ghi: "Vua thiên tư sáng suốt nối vận thái bình: bên trong ức chế quyền thần, bên ngoài đánh dẹp Di địch. Trọng đạo sùng Nho, mở khoa thi chọn hiền sĩ, xử tù, xét án phần nhiều tha thứ khoan hồng. Cũng là bậc vua tài giỏi nối giữ cơ đồ. Song đam mê tửu sắc, đến nỗi thình lình băng ở bên ngoài cũng là tự mình chuốc lấy hoạ..."
Lê Thái Tông lên ngôi vua mới 11 tuổi, còn quá trẻ lại phải đối phó với tình hình triều đình khá phức tạp. Mâu thuẫn và chia rẽ giữa hai lực lượng: một bên là các công thần khai quốc, đứng đầu là Đại tư đồ Lê Sát, Lê Ngân; một bên là những quan lại khoa bảng. Mặc dù vậy Thái Tông vẫn đủ bản lĩnh để không cho các đại thần hoàn toàn thao túng.
Ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất - 1442, Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh. Nguyễn Trãi mời vua ngự chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8, vua về đến Lệ Chi Viên - vườn vải huyện Gia Định - nay thuộc Gia Lương, Bắc Ninh. Cùng đi với vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi, được vua yêu quý và luôn phải theo hầu bên cạnh vua. Đêm đó Thái Tông bị bạo bệnh chết đột ngột khi mới 20 tuổi. Bọn gian thần trong triều vu cho Nguyễn Thị Lộ tội ám hại vua, rồi khép Nguyễn Trãi vào án "tru di tam tộc". Ngày 16 tháng 8, Nguyễn Trãi và ba họ bị hành hình. Chỉ có một người thoát chết là bà Phạm Thị Mẫn, một người thiếp khác của Nguyễn Trãi đang mang thai, được học trò của ông đưa trốn sang Lào. Bà Mẫn đẻ ra Nguyễn Anh Vũ. Sau này, vua Lê Thánh Tông minh oan cho Nguyễn Trãi. Nguyễn Anh Vũ được vua trọng dụng. Ông Nguyễn Văn Cừ, nguyên Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương là "hậu duệ" thuộc dòng họ ở Tiên Du, Bắc Ninh của Nguyễn Trãi.
Vua Lê Thánh Tông mất mới 20 tuổi, nhưng đã có bốn con trai do bốn bà vợ sinh ra. Bà Chiêu Nghi Dương Thị Bí sinh ra Nghi Dân; bà Thần Phi Nguyễn Thị Anh sinh ra Hoàng tử Bang Cơ; bà Tiệp Dư Ngô Thị Ngọc Giao sinh ra Hoàng tử Tư Thành - sau này lên ngôi vua, hiệu là Lê Thánh Tông; và một bà vợ khác sinh ra Cung Vương Khắc Xương.

Lê Thần Tông (1619-1643 và 1649-1662)
Lê Thần Tông tên huý là Duy Kỳ, con trưởng của Lê Kính Tông và bà Trịnh Thị Ngọc Trinh (con thứ của Trịnh Tùng).
Duy Kỳ sinh ngày 19 tháng 11 năm Đinh Mùi - 1607, là cháu ngoại của Bình An Vương Trịnh Tùng, tháng 6 năm 1619 được lập làm vua khi đó mới 12 tuổi.
Vua có sống mũi cao, thông minh, học rộng, mưu lược sâu, văn chương giỏi. Song lấy Trịnh Thị Ngọc Trúc (là vợ của chú họ) để tiếng xấu về sau.
Tháng 10/1643, Lê Thần Tông nhường ngôi cho con là Lê Duy Hựu (tức Lê Chân Tông) để làm Thái thượng hoàng.
Tháng 8 năm 1649, Lê Chân Tông bị bạo bệnh mất, vì không có con nối ngôi, Lê Thần Tông lại trở lại ngôi vua lần thứ 2.
Ngày 22 tháng 9 năm 1662, Lê Thần Tông mất thọ 56 tuổi, ở ngôi 24 năm, làm Thái thượng hoàng 6 năm, lại lên ngôi 13 năm, tổng cộng làm vua 2 lần 37 năm.
Lê Thánh Tông (Tư Thành,1460-1497)
Lê Thánh Tông tự là Tư Thành có tên huý là Hạo, con trai út của Lê Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Giao - con gái Thái Bảo Ngô Từ. Lê Tư Thành sinh ra tại chùa Huy Văn - nay ở phía trong ngõ Văn Chương, phố Tôn Đức Thắng (Hàng Bột cũ), Hà Nội. Sống giữa chốn dân gian từ nhỏ đến năm lên 4 tuổi. Mẹ Nhân Tông khi đó đang buông rèm nghe chính sự, cho đón Tư Thành về ở trong cung rồi phong làm Bình Nguyên vương hằng ngày cùng vua Nhân Tông và các vương hầu khác học tập tại toà Kính Diên. Tư Thành chăm chỉ học tập, dáng dấp đoan chính, thông tuệ hơn người, được vua Nhân Tông rất yêu quý.
Lê Thánh Tông sinh ngày 20 tháng 7 năm Nhâm Tuất - 1442. Ngày 6 tháng 6 năm Canh Thìn - 1460, các quan đại thần phế truất Nghi Dân, rước Tư Thành - lúc đó 18 tuổi - lên ngôi vua.
Lê Thánh Tông hết lòng chăm lo việc nước: mở khoa thi, kén chọn hiền tài, khuyến khích sản xuất nông nghiệp, mở mang ngành nghề, mở rộng giao lưu buôn bán, ban hành chế độ quân điền, coi trọng việc bảo vệ biên giới quốc gia. Bản đồ biên giới quốc gia Đại Việt được hoàn thành dưới triều Lê Thánh Tông.
Bộ luật Hồng Đức nổi tiếng mang niên hiệu vua Lê Thánh Tông còn lại cho đến nay là một trong những bộ luật hoàn chỉnh và có nhiều điểm tiến bộ nhất dưới thời phong kiến nước ta.
Bộ Đại việt sử ký toàn thư do sử quan Ngô Sĩ Liên biên soạn năm Kỷ Hợi - 1479 dưới sự chỉ đạo của vua Lê Thánh Tông.
Lê Thánh Tông còn lập ra Hội Tao Đàn gồm 28 ông tiến sĩ giỏi văn thơ nhất nước thời đó gọi là "Tao Đàn nhị thập bát tú" do nhà vua làm nguyên suý.
Năm 1497, Lê Thánh Tông mất, ở ngôi 37 năm, thọ 56 tuổi, táng ở Chiêu Lăng.

Lê Thế Tông (1567-1599)
Lê Duy Đàm (Thế Tông) (Đinh Mão 1567 – Kỉ Hợi 1599)
Vua thứ tư nhà Hậu Lê thời Trung Hưng, hoặc cũng gọi là thời Nam Bắc triều, vì có nhà Mạc đối lập, miếu hiệu Thế tông Nghị hoàng đế. Con thứ năm Lê Anh tông.
     Ông được đưa lên ngôi thời 6 tuổi, vào tháng giêng năm Quí dậu 1573; nhưng quyền bính thật sự ở trong tay Trịnh Tùng.
     Kỉ Hợi 1599, ngày 24-8 ông băng hà, mới 32 tuổi. Táng tại Hoa Nhạc lăng ở Đông Sơn, tỉnh Thanh hóa. Con thứ của ông là Duy Tân lên nối, tức Kính tông.
     Ông ở ngôi 27 năm, đổi hiệu năm 2 lần:
+ Gia Thái 5 năm.
+ Quang Hưng 22 năm.

Nguồn: Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr.  440.
Lê Thị Hồng Gấm
Lê Thị Hồng Gấm, sinh nǎm 1951, trong một gia đình nông dân lao động ở xã Long Hưng, huyện Châu Thành, Mỹ Tho (nay thuộc Tiền Giang). Tham gia cách mạng từ nhỏ, việc gì được giao cũng nhận và hǎng hái làm tròn. Đói với đồng đội thì ơn nghĩa chí tình như đứa em gái.
Chị hi sinh trên đường giao liên vào xuân 1970, sau khi một mình tiêu diệt nhiều tên địch, bắn rơi máy bay lên thẳng của địch. Bi thương nặng biết không qua khỏi, chị đã bắn đến viên đạn cuối cùng, gắng sức đập gẫy nát khẩu súng không để lọt vào tay địch. Lúc đó Hồng Gấm mới 19 tuổi.
Lê Thị Ngọc Hân (Tân Mão 1771 – Kỉ Mùi 1799)
Nữ sĩ, công chúa thứ 21 của Lê Hiển tông và Phù Ninh Từ cung Nguyễn Thị Huyền, quê mẹ ở làng Phù Ninh, tổng Hạ Dương, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc Bắc Ninh).
Bà tục gọi là Chúa Tiên, người đã xinh đẹp lại có tài văn chương. Năm 15 tuổi (Bính Ngọ 1786) bà lấy chồng là Nguyên suý Ủy chính phù Uy Quốc công Nguyễn Huệ nhà Tây Sơn. Sau chồng lên ngôi hoàng đế, tức vua Quang Trung, bà được phong là Bắc cung Hoàng hậu.
Năm Nhâm Tí. Chồng mất bà có làm một bài văn tế và một khúc ngâm gọi là Ai tư vãn được truyền tụng. Đến năm Kỉ Mùi 1799 bà mất, hưởng dương 28 tuổi. Vua Cảnh Thịnh (Quang Toản) truy tông miếu hiệu là Như ý Trang thận Trinh nhất Võ Hoàng hậu (xin đừng lầm với Võ Hoàng Chính hậu. Bà này là mẹ ruột của vua Cảnh Thịnh.
Ai Tư vãn là một trong các khúc ngâm với nghệ thuật ngôn từ thi ca xuất sắc của văn học Việt Nam.

Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 520.

Lê Thuần Tông (1732-1735)
Lê Thuần Tông tên huý là Duy Tường, con trưởng của Lê Dụ Tông được chúa Trịnh Giang lập làm vua năm 1732, đổi niên hiệu là Long Đức.
Năm 1735, Thuần Tông mất, thọ 37 tuổi, làm vua được 3 năm.
Lê Thuần Tông mất, chúa Trịnh Giang lập Duy Thìn là con thứ 11 của Lê Dụ Tông lên làm vua.
Lê Trang Tông (1533-1548
Lê Trang Tông tên huý là Duy Ninh, là con của vua Lê Chiêu Tông, mẹ là Phạm Thị Ngọc Quỳnh, cháu năm đời của Lê Thánh Tông.
Khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê, Duy Ninh mới 11 tuổi được Lê Quán cõng chạy sang Ai Lao đổi tên là Huyến. Đến tháng giêng năm Quý Tỵ - 1533 được Chiêu huân công Nguyễn Kim đón về lập lên làm vua, lúc đó Duy Ninh 19 tuổi.
Duy Ninh lên làm vua đặt niên hiệu là Nguyên Hoà, tôn Nguyễn Kim làm Thượng phụ Thái sư Hưng quốc công, lấy Sầm Hà làm nơi hành tại, giao kết với vua Ai Lao là Xạ Đẩu để nhờ quân lương, mưu việc lấy lại nước.
Tháng 12 năm 1540, Nguyễn Kim kéo quân từ Ai Lao về đánh Nghệ An, hào kiệt các nơi theo về giúp Lê Trung Hưng rất đông. Cuối năm 1543, Lê Trung Hưng chiếm được Tây Đô (Thanh Hoá). Nước ta từ đó hình thành "Nam - Bắc triều". Từ Thanh Hoá, Nghệ An trở vào do Lê Trung Hưng cai quản (Nam Triều). Cả vùng Bắc Bộ trong đó có kinh đô Đông Đô thuộc nhà Mạc cai quản (Bắc Triều). Hai bên Lê - Mạc nội chiến tàn khốc kéo dài gần 50 năm (1543-1592).
Năm 1545, Nguyễn Kim tiến đánh Sơn Nam, đến Yên Mô (Ninh Bình), thì bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc giết chết.
Trịnh Kiểm là con rể Nguyễn Kim, nắm giữ binh quyền, mở đầu thời kỳ "vua Lê, chúa Trịnh".
Năm 1546, Trịnh Kiểm lập hành tại vua Lê ở Vạn Lại (Thanh Hoá). Lấy danh nghĩa "phù Lê, diệt Mạc", nhiều hào kiệt, danh sĩ đương thời tìm vào Thanh Hoá phò Lê Trung Hưng như Lương Đắc Bằng, Phùng Khắc Khoan...
Năm 1548, Lê Trang Tông mất, thọ 34 tuổi, ở ngôi được 15 năm. Trịnh Kiểm lập Thái tử Duy Huyên lên nối ngôi là Lê Trung Tông.


 Lê Trọng Tấn

 Lê Trọng Tấn (tên thật: Lê Trọng Tố; 1914 - 1986)
Lê Trọng Tấn (tên thật: Lê Trọng Tố; 1914 - 1986), nhà hoạt động cách mạng và quân sự Việt Nam. Đại tướng. Quê ở Yên Nghĩa, Hoài Đức, Hà Tây. Tham gia cách mạng từ 1944, đảng viên cộng sản (1945). Trong Cách mạng tháng Tám 1945, là uỷ viên quân sự trong ban lãnh đạo khởi nghĩa tỉnh Hà Đông. Từ 1945 đến 1950, là trung đoàn phó rồi trung đoàn trưởng các trung đoàn: Sơn La, Sơn Tây, quyền khu trưởng Khu XIV, khu phó Liên khu X. Trong Chiến dịch biên giới (1950), là đại đoàn trưởng đầu tiên của Đại đoàn 312, chỉ huy đại đoàn trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Từ 12.1954 đến 1960, hiệu trưởng Trường Sĩ quan Lục quân. Tháng 3.1961 - 1962, phó tổng tham mưu trưởng, trực tiếp làm tư lệnh Mặt trận đường 9 (1971). Năm 1972, tư lệnh Chiến dịch Trị Thiên, năm 1973 phó tổng tham mưu trưởng kiêm tư lệnh Quân đoàn 1. Tháng 3.1975, tư lệnh Chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng, chỉ huy cánh quân phía Đông đánh thẳng vào Sài Gòn. Tháng 4.1975, phó tổng tham mưu trưởng kiêm phó tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh. Từ 1976 đến 2.1977, phó tổng tham mưu trưởng kiêm viện trưởng Học viện Quân sự cấp cao. Từ 6. 1978 đến 1986, thứ trưởng Quốc phòng, tổng tham mưu trưởng, uỷ viên thường vụ Đảng uỷ Quân sự Trung ương. Từ 12.1978 đến 2. 1979, trực tiếp chỉ huy các lực lượng vũ trang nhân dân trong Chiến tranh biên giới Tây Nam. Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam các khoá IV, V; đại biểu Quốc hội khoá VII. Huân chương Hồ Chí Minh, hai huân chương Quân công (hạng nhất, hạng ba); huân chương Chiến thắng hạng nhất, huân chương Kháng chiến hạng nhất và nhiều huân chương cao quý khác.

Lê Trung Hưng
Lê Trung Hưng (1533 - 1789), thời kì phục hồi vương triều nhà Lê. Vua đầu tiên do Nguyễn Kim dựng lên, sau bị họ Trịnh thay thế và thực sự nắm chính quyền.
Lê Trung Hưng có 16 đời vua là Trang Tông Duy Ninh, Trung Tông Duy Huyên, Anh Tông Duy Bang, Thế Tông Duy Đàm, Kính Tông Duy Tân, Thần Tông Duy Kỳ, Chân Tông Duy Hựu, Huyền Tông Duy Vũ, Gia Tông Duy Hợi, Hy Tông Duy Hợp, Dụ Tông Duy Đường, Lê Đế Duy Phường, Thuần Tông Duy Tường, Ý Tông Duy Thìn, Hiển Tông Duy Diêu và Mẫn Đế Duy Kỳ.
Là thời kì có nhiều biến động lớn: Chiến tranh Nam - Bắc triều, Chiến tranh Trịnh - Nguyễn, phong trào nông dân giữa thế kỉ 18. Năm 1786, Tây Sơn diệt Trịnh, nhà Lê không đủ sức nắm chính quyền. Cuối 1788, Lê Duy Kỳ chạy sang Thanh cầu cứu, bị Tây Sơn đánh bại đầu năm 1789.


Lê Trung Tông (1548-1556)
Lê Duy Huyên (Ất Mùi 1535 Bính Thìn 1556)
Vua nhà Hậu Lê, niên hiệu Trung tông Võ hoàng đế, con trưởng Lê Trang tông.
     Năm Mậu Thân 1548, ngày 29 tháng 1 ông lên ngôi, mới 13 tuổi. Năm sau mới bắt đầu đặt hiệu năm.
     Đến năm Bính Thìn 1556, ngày 24 tháng giêng ông mất, mới 21 tuổi. Không con, táng tại Diêm lăng, thuộc Lam Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
     Ở ngôi 8 năm, hiệu là Thuận Bình, Kỉ Dậu 1549 – Bính Thìn 1556. Sau đó, Trịnh Tùng tìm được Lê Duy Bang đưa về lên ngôi, tức Anh tông.
 
Nguồn: Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr.  441.
Lê Túc Tông (Lê Thuần, 6/6/1504-7/12/1504)
Lê Túc Tông tên huý là Thuần, là con trai thứ 3 của Lê Hiến Tông, mẹ là Trang Thuận Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Hoàn, quê ở Bình Lăng, Thiên Thi, Hưng Yên.
Lê Túc Tông ham học hỏi, thân người hiền, vui điều thiện, đúng là một vị vua giỏi giữ nghiệp thái bình.
Lê Túc Tông lên ngôi vua ngày 6 tháng 6 năm 1504. Tháng 11 năm 1504 mắc bệnh nặng, biết không qua khỏi mới mời các quan triều thần đến để chỉ định người anh thứ 2 là Lê Tuấn lên ngôi vua. Ngày 7 tháng 12 năm 1504 vua Túc Tông mất, ở ngôi được 6 tháng, thọ 17 tuổi.

Lê Tương Dực (Lê Oanh, 1509-1516)
Lê Tương Dực tên huý là Oanh, là cháu nội của vua Lê Thánh Tông, con thứ hai của Kiến Vương Lê Tân và bà Huy từ Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Tuyên, người làng Thuỷ Chú, huyện Lôi Dương (tức Thọ Xuân, Thanh Hoá), sinh ngày 25 tháng 6 năm 1495.
Sau khi giết Lê Uy Mục, Oanh tự lập làm Vua.
Bản thân Lê Tương Dực cũng lao vào con đường ăn chơi truỵ lạc. Tháng 5/1514 nghe sàm tấu của Hiệu uý Hữu Vĩnh giết chết 15 Vương Công, cho gọi các cung nhân của triều trước vào cung để gian dâm.
Trịnh Duy Sản nhiều lần can ngăn, Vua không nghe, còn đem Sản ra đánh bằng trượng.
Tháng 4/1516, Trịnh Duy Sản sai đâm chết Tương Dực. Tương Dực ở ngôi được 7 năm, thọ 22 tuổi.
Lê Uy Mục (Lê Tuấn,1505-1509)
Lê Uy Mục tên huý là Tuấn, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1488, mẹ là Chiêu Nhân Hoàng Thái hậu Nguyễn Thị Cận, người làng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, Bắc Giang, lên ngôi vua ngày 22 tháng 1 năm 1505.
Lê Uy Mục từ khi lên ngôi vua ham rượu chè, gái đẹp, thích giết người, tin dùng người họ mẹ. Sự tàn bạo quá đáng của Lê Uy Mục đã gây bất bình trong dân chúng và triều thần.
Tháng 11 năm 1509, Giản Tu Công Oanh tự xưng là Cẩm Giang Vương ở Tây Đô (Thanh Hoá) đưa quân về chiếm Đông Kinh (Hà Nội) bắt được và bức Lê Uy Mục tự tử tháng 12/1509.
Lê Uy Mục ở ngôi được 4 năm, thọ 22 tuổi.
Lê Văn Duyệt (Quí Mùi 1763 – Nhâm Thìn 1832)
Lê Văn Duyệt (Quí Mùi 1763 – Nhâm Thìn 1832)
Danh tướng công thần bậc nhất /của triều Nguyễn, quê gốc Bồ Đề ( Mộ Đức, Quảng Ngãi). Từ đời ông nội di cư vào Nam, ngụ ở làng Hoà Khánh (gần Vàm Trà Lọt), tỉnh Định Tường. Sang đời thân phụ ông là Lê Văn Hiếu dời đến sinh sống ở Rạch Gầm thuộc tổng Long Hưng, Mỹ Tho, cũng trong tỉnh Định Tường (nay là Tiền Giang).
Từ 1780, đi theo Nguyễn Ánh, hết lòng phò tá cho việc khôi phục cơ đồ chúa Nguyễn, lập nhiều chiến công, đặc biệt là các trận thắng Tây Sơn ở Thị Nại (1800), rồi ở Phú Xuân (1801). Năm 1802, cùng Lê Chất ra thu phục Bắc Hà, sau về làm kinh lược vùng Thanh - Nghệ. Từ 1813, vào Nam làm tổng trấn Gia Định thành; đến năm 1816 được triệu về Huế; năm 1820, lại trở vào Nam làm tổng trấn Gia Định thành lần thứ hai cho đến khi mất (1832)
Lê Văn Duyệt còn là một nhà chính trị xuất sắc. Ông giữ vững bờ cõi Miền Nam, phát huy ảnh hưởng và uy thế của nước nhà ra các nước láng giềng như Xiêm La (Thái Lan), nhất là Chân Lạp (Cămpuchia). Ông cũng ứng xử khéo léo với những người ngoại quốc phương Tây đến buôn bán ở Gia Định. Về đối nội, ông mở mang đồn điền, đắp đường xây luỹ, tổ chức đào kênh, khai hoang lập ấp, thực hiện tốt chính sách trị an. Được triều đình phong là khâm sai chưởng tả quân dinh, tổng trấn, nhưng nhân dân gọi ông một cách kính trọng là Thượng Công.
Lê Văn Duyệt là người cương trực, ghét xu nịnh. Ông kết án tử hình một viên quan tham nhũng, hống hách tàn bạo với nhân dân là Huỳnh Công Lý, mặc dù người này có con gái là vợ vua Minh Mạng. Bị Minh Mạng ghét vì chống việc lên ngôi và một số chính sách của Minh Mạng.
Khi ông mất, Minh Mạng đã viện nhiều cớ để lập bản án nghiệt ngã đối với ông. Cùng với việc trừng trị nặng nề Lê Văn Khôi (con nuôi của ông và là thủ lĩnh khởi nghĩa đánh thành Gia Định), nhà vua đã bắt tội nhiều người thân của Lê Văn Duyệt, cho san phẳng mộ ông.
Dưới triều Tự Đức, ông được minh oan, mộ và đền thờ được xây lại. Mộ và nơi thờ hiện nay được nhân dân tôn xưng là Lăng Ông hoặc Lăng Ông Bà Chiểu, nằm tại xã Bình Hoà thành phố Hồ Chí Minh.

Lê Văn Hưu (Canh Dần 1230 – Nhâm Tuất 1322)
Lê Văn Hưu (Canh Dần 1230 – Nhâm Tuất 1322)
Danh sĩ, sử gia đời Trần Thái tông, quê xã Phủ Lí, huyện Đông Sơn, tỉnh Thanh Hóa (nay là thôn Phủ Lí Trung, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa).
Năm Đinh mùi 1247 ông đỗ Bảng nhãn, 17 tuổi làm pháp quan, giữ việc hình luật, rồi làm đến Thượng thư bộ Binh, tước Nhân Uyên Hầu.
Đến đời Thánh tông, ông sung chức Học sĩ Viện Hàn lâm, kiêm Tu viện Quốc sử, phụng chỉ sọan bộ Đại Việt sử kí. Sách soạn xong trong năm Nhâm Thìn 1272, gồm 30 quyển, chép từ đời triệu võ đế đến đời Lý Chiêu hoàng. Bộ sử này đã được vua Trần Thánh tông ban chiếu khen thưởng tác giả đã giày công biên sọan.
Ngoài ra ông cũng là thầy dạy học của Thượng tướng Trần Quang Khải…Tính ông thích du ngoạn, xem xét hình thể núi sông, lưu tâm nghiên cứu về môn địa lí.
Thời gian này ông giữ chức pháp quan, trông coi việc hình luật, rồi thăng Thượng thư bộ Binh, tước Nhân Uyên hầu, sung Hàn lâm học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu, được vua giao cho việc soạn bộ Đại Việt Sử kí như vừa nói ở trên.
Năm Nhâm Tuất 1322, ngày 23-3 Âm lịch (9-4-1322) ông qua đời, thọ 92 tuổi.

Nguồn:Thư viện Trung tâm sưu tầm và tập hợp.
Lê Ý Tông (1735-1740)
Lê Ý Tông tên huý là Duy Thìn lêm làm vua mới 17 tuổi.
Chúa Trịnh Giang là kẻ vô cùng bạo ngược, sát hại công thần, giết vua nọ lập vua kia. Vì thế, tháng 12 năm 1738, các tôn thất nhà Lê như Duy Mật, Duy Quý (con Dụ Tông), Duy Chúc (con Hy Tông) nổi lên chiếm cứ miền thượng du tây nam Thanh Hoá chống nhau với nhà Trịnh ròng rã 30 năm.
Từ ngày giết vua, Trịnh Giang ngày càng lấn át quyền vua. Trịnh Giang tha hồ ăn chơi trác táng, vì thế mắc bệnh kinh quý, sợ sấm sét. Bọn hoạn quan Hoàng Công Phụ cho đào đất làm cung thưởng trì dưới hầm cho Trịnh Giang ở. Bọn hoạn quan tha hồ lũng đoạn triều đình. Các quan đại thần kế tiếp nhau bị giết hại, thuế khoá nặng nề, lòng dân ly tán. Các cuộc khởi nghĩa của nhân dân nổ ra khắp nơi.
Trước tình hình nguy ngập đó. Trịnh Thái Phi (mẹ Trịnh Giang và Trịnh Đường) cho triệu quần thần đến đưa Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang để trừ hoạn nạn.
Năm 1740, Trịnh Doanh lên thay Trịnh Giang, tháng 5 năm 1740, Trịnh Doanh ép Lê ý Tông nhường ngôi cho con trưởng của Thuần Tông là Duy Diêu. 19 năm sau Lê ý Tông mất, thọ 40 tuổi, trị vì được 5 năm.
Lý Anh Tông (Lý Thiên Tộ 1138 - 1175)
Lý Thiên Tộ là con đích trưởng của Lý Thần Tông, con bà Lê Hoàng hậu, sinh tháng 4 năm Bính Thìn (1136), lên ngôi Hoàng đế năm 1138, lúc đó mới 3 tuổi. Lê Hoàng hậu cầm quyền nhiếp chính lại tư thông với Đỗ Anh Vũ làm cho triều đình đổ nát, sau nhờ có các trung thần như Tô Hiến Thành, Hoàng Nghĩa Hiền, Lý Công Tín nên giữ vững được cơ đồ nhà Lý.
Lý Anh Tông mất năm ất Mùi (1175), trị vì được 37 năm, thọ 40 tuổi.
Lý Bôn (Nam Việt Đế) (… - Mậu Thìn 548)
Lý Bôn (… - Mậu Thìn 548)
Đại thần, người gầy dựng nhà Tiền Lê, xưng Nam đế, cũng gọi là Lý Bí hoặc Lý Phần, quê huyện Long Hưng, tỉnh Thái Bình.
Ông từng làm quan với nhà Lương khi nước ta bị chúng đô hộ. Nhà giàu có, tài gồm văn võ, ít lâu ông cáo quan lui về quê, nuôi chí đánh đuổi giặc. Nhân Thứ sử Giao Châu là Tiêu Tư tàn ác, ông dấy quân đánh đuổi Tiêu Tư chạy về Quảng Châu, thu phục Thăng Long. Rồi tiến đánh Lâm Ấp, chiêu an dân chúng, tự xưng Nam đế, đặt hiệu nước là Vạn Xuân, hiệu năm là Thiên Đức trong năm Giáp Tí 544, có Tinh Thiều, Triệu Túc giúp việc chính trị. Lý Đại Quyền, Lý Phổ Đình, Triệu Quang Phục coi việc binh trị.
Nhà Lương lại sai tướng Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân xâm lược. Ông chống cự nhiều trận bị thua, rút quân về đóng ở hồ Điển Triệt (huyện Lập Thạch). Quân Lương tiến công, ông thất thế chạy vào động Khuất Liêu (thuộc tỉnh Hưng Hóa), rồi bệnh mất trong năm Mậu Thìn 548. Tướng của ông là Triệu Quang Phục tiếp tục kháng chiến.

Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 582


Lý Cao Tông (Lý Long Cán 1176 - 1210)


Lý Anh Tông mất, Thái tử Long Cán lúc đó chưa đầy 3 tuổi, bà Chiêu Linh Thái hậu muốn lập con cả của mình là Long Xưởng lên ngôi vua. Bà đem vàng bạc đút lót cho vợ Tô Hiến Thành, nhưng Tô Hiến Thành nhất định không nghe cứ theo di chiếu lập Long Cán lên làm vua, hiệu là Lý Cao Tông. Lớn lên Cao Tông chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi lên như ong, đói kém liên miên, cơ nghiệp nhà Lý từ đó suy đồi.
Năm Bính Thìn (1208) có loạn Quách Bốc, vua Cao Tông đem gia quyến chạy lên vùng Tam Nông (Vĩnh Phú). Thái tử Sảm theo Tô Trung Tự chạy về Hải ấp (làng Lưu Xá, Hưng Hà, Thái Bình) vào ở nhà ông Trần Lý làm nghề đánh cá. Thấy con gái Trần Lý là Trần Thị Dung xinh đẹp thì lấy làm vợ rồi phong cho Trần Lý tước Minh Tự, phong cho Tô Trung Tự, cậu ruột của Trần Thị Dung chức Điện tiền chỉ huy sứ.
Anh em nhà Trần: Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thủ Độ mộ quân giúp Thái tử Sảm khôi phục kinh đô Thăng Long rồi lên Tam Nông rước Cao Tông về kinh đô.
Cao Tông mất năm Canh Ngọ (1210), trị vì được 34 năm, thọ 38 tuổi.
Một người trong hoàng tộc là Lý Long Tường đã phải ra đi trong những năm tháng đầy biến động này. Ông phiêu dạt tới đất Cao Ly và lập nhiều chiến công chống ngoại xâm bảo vệ miền quê mới. Ông được phong tước, được cấp đất và lập nên dòng họ Lý Hoa Sơn định cư tại Hàn Quốc. Hậu duệ của ông - tức hậu duệ đời thứ 31 của Lý Thái Tổ - là Lý Xương Căn (Lee Chang Kun) đã về Việt Nam từ năm 2000 để lập Công ty Việt - Lý tại quê hương Đình Bảng, Bắc Ninh. Việt-Lý Co., Ltd chuyên sử dụng một số chất thải công nghiệp làm thành nguồn nguyên liệu mới, sản xuất PEASCO - một loại vật liệu nhựa tổng hợp với tỷ lệ chính là phế liệu plastic thay thế xi măng, sản xuất hệ thống kênh mương dùng trong các công trình tưới tiêu phục vụ nông nghiệp, thoát nước, xây dựng giao thông đường bộ
Lý Chiêu Hoàng (Phật Kim 1224 - 1225)
Dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Lý Huệ Tông bị ép đi tu, nhường ngôi vua cho con gái là công chúa Chiêu Thánh (lúc đó mới 7 tuổi) niên hiệu là Lý Chiêu Hoàng. Binh quyền về tay Trần Thủ Độ.
Cũng dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh (8 tuổi) là con ông Trần Thừa được đưa vào hầu cận Lý Chiêu Hoàng.
Trần Cảnh được Chiêu Hoàng yêu mến, thường hay té nước, ném khăn trêu đùa. Trần Thủ Độ tung tin là Lý Chiêu Hoàng đã lấy chồng là Trần Cảnh.
Ngày 21 tháng 10 năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, trước bá quan văn võ, Chiêu Hoàng cởi hoàng bào mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng đế đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, dựng lên triều đại nhà Trần từ đấy.

Lý Công Uẩn – Lý Thái Tổ (Giáp Tuất 974 – Mậu Thìn 1028)
Lý Công Uẩn (Giáp Tuất 974 – Mậu Thìn 1028).
Vua nhà Lý, người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang, sinh ngày 12-2 năm Giáp Tuất (8-3-974). Ông là vua khai sáng nhà Lý tức Lý Thái tổ, lên ngôi lúc 35 tuổi.
Thân mẫu ông họ Phạm, năm lên 3 tuổi ông làm con nuôi sư Lý Khánh Vân, đến tuổi trưởng thành ông thông minh, có tài văn võ. Làm quan nhà tiền Lê đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
Nhà Tiền Lê suy vi vì Lê Ngọa Triều bạo ngược, triều thần là Đào Cam Mộc ngầm mưu với sư Nguyễn Vạn Hạnh thường khuyên ông hãy sẵn sàng lật đổ nhà Lê. Đến năm Kỉ Dậu 1009, Lê Ngọa Triều mất, ông cùng Hữu điện tiền chỉ huy sứ là Nguyễn Đề đem 500 quân Tùy Long vào cung canh giữ. Nhân thời cơ, Đào Cam Mộc giục ông hành động. Cuộc “đảo chính” thành công chớp nhoáng.
Ông lên ngôi vua sáng lập nghiệp Lý, dời đô ra thành Đại La (sau đổi thành Thăng Long – Hà Nội). Ông sửa sang chính trị, trọng dụng Đào Cam Mộc, gả em gái là An Quốc cho, phong tước Nghĩa Tín hầu. Mặt khác, ông cũng trọng đãi tăng sĩ, chú trọng việc đúc tượng xây chùa, thời kỳ này xem đạo Phật như là Quốc giáo.
Ngày 3-3 Mậu Thìn (31-3-1028) ông mất hưởng dương 54 tuổi, ở ngôi 19 năm, hiệu là Thuận Thiên.

Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 582-583.
Lý Huệ Tông (Lý Hạo Sảm 1210 - 1224)


Thái tử Sảm lên ngôi Hoàng đế, hiệu là Huệ Tông, lập Trần Thị Dung làm nguyên phi, phong cho Trần Tự Khánh làm Chương Tín hầu, Tô Trung Tự làm Thái uý, Thuận Lưu Bá, Trần Thừa làm Nội thị phán thủ.
Thái tử Sảm sinh tháng 7 năm Giáp Dần (1194) con cả của Cao Tông và bà Hoàng hậu họ Đàm.
Năm Quý Mùi (1223), Trần Tự Khánh mất, Trần Thừa được phong làm Phụ quốc thái uý, Trần Thủ Độ là Điện tiền chỉ huy sứ.
Vua Huệ Tông thường rượu chè say khướt suốt ngày, bỏ bê triều chính. Huệ Tông không có con trai. Hoàng hậu Trần Thị Dung chỉ sinh được hai con gái. Con gái lớn là Thuận Thiên công chúa đã gả cho Phụng kiều vương Trần Liễu, công chúa thứ 2 là Phật Kim (công chúa Chiêu Thánh) mới 7 tuổi được làm Thái tử.
Đến tháng 10 năm Giáp Thân (1224), Lý Huệ Tông truyền ngôi cho công chúa Chiêu Thánh rồi đi tu ở chùa Chân Giáo.
Lý Huệ Tông trị vì được 13 năm, sau bị Trần Thủ Độ ép tự tử, thọ 33 tuổi.
Lý Nhân Tông (Lý Càn Đức 1072 – 1127
Các sử sách đương thời và đời sau, đều nhất loạt ca ngợi Lý Nhân Tông là một vị vua giỏi của thời nhà Lý. Ông là con của vua Lý Thánh Tông và Nguyên phi ỷ Lan, sinh ngày 25 tháng giêng nǎm Bính Ngọ (1066), thì ngay ngày hôm sau (26) được phong làm Hoàng Thái tử. Vua Lý Thánh Tông mất sớm, khi Càn Đức mới 7 tuổi lên nối ngôi lấy hiệu là Lý Nhân Tông vào nǎm 1072. Mặc dù còn ít tuổi, mọi việc quân quốc điều hành phải có sự giúp đỡ của mẹ là Thái phi ỷ Lan, lúc này được phong là Linh Nhân hoàng thái hậu, nhưng Lý Nhân Tông sớm tỏ ra là một con người thông minh, nhanh chóng quán xuyến được công việc triều đình. Không những thế ông còn được người hiền tài phò tá: Lý Đạo Thành theo dõi việc vǎn, Lý Thường Kiệt theo dõi việc võ. Vì thế đất nước Đại Việt trở nên hùng mạnh. Đặc biệt là việc học hành, nǎm Â't Mão (1075) vua mở khoa thi tam trường còn gọi là Minh kinh bác học để chọn người có tài vǎn học vào làm quan. Đây là khoa thi đầu tiên ở nước ta chọn được 10 người, thủ khoa là Lê Vǎn Thịnh. Nǎm Bính Thìn (1076) vua cho lập Quốc Tử Giám trường đại học đầu tiên của nước ta. Đến nǎm Bính Dần (1086) mở khoa thi chọn người có tài vǎn học vào Hàn lâm viện. Tiếp đó, tuy mới có 10 tuổi, vua đã trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống quân Tống. Thấy nước ta không có vua lớn tuổi, nhà Tống theo kế hoạch của Vương An Thạch, sai bọn Quách Quì, Triệu Tiết đem quân sang hòng biến nước ta làm quận huyện của chúng. Chúng lại lôi kéo được cả những nước Chiêm Thành, Chân Lạp làm vây cánh để gây thanh thế. Lý Nhân Tông đã giao việc chống cự cho Lý Thường Kiệt, chỉ một thời gian ngắn đã đánh tan quân giặc ở sông Như Nguyệt, rồi tiến quân sang cả bên kia biên giới đánh vào châu Khâm, châu Ung, châu Liêm. Bọn tướng giặc các châu này như Trương Thủ Tiết, Tô Giám đều bị chết trận. Tham gia vào cuộc kháng chiến này, lúc bấy giờ có nhiều anh hùng thuộc các dân tộc ít người vùng biên giới, đã lập được nhiều chiến công. 
Theo thời gian, Lý Nhân Tông đã bước sang tuổi trưởng thành. Ông bộc lộ thêm nhiều khả nǎng chính trị. Ông theo dõi tình hình hộ khẩu, chú trọng đến tầng lớp thanh niên lớn lên, định thành thứ bậc hẳn hoi, gọi đó là những hoàng nam (những chàng trai của triều đình). Ông chú ý tìm những người giỏi đưa vào Viện Hàn lâm. Nǎm 1086, ta lại có thêm một trạng nguyên nữa, đó là Mạc Hiền Tích. Nhà vua chịu khó đi nhiều nơi, phần lớn là đến tổ chức những ngày hội ở các địa phương để gây hào hứng cho dân chúng thừa hưởng nhưng ngày thái bình thịnh vượng. Vua cho lập nhiều chùa, và có ý thức tạo nên những thắng cảnh cho đất nước. Chùa Một Cột trước đó gọi là chùa Diên Hựu - được nâng cấp thành một cảnh trí phong quang. Vua cho dựng ở đây hai ngọn tháp chỏm trắng, cho đào hồ Liên Hoa đài, gọi là hồ Linh Chiểu. Ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chung quanh, ngoài hành lang lại đào hồ gọi là Bích Trì, đều bắc cầu vồng để đi qua. Trước sân chùa xây bảo tháp. Vua đã cho đúc chuông lớn ở đây. Chuông đúc quá to đúc xong đánh lại không kêu, nhưng đem vứt xuống ruộng, nhiều rùa kéo nhau vào làm ổ, do đó mà có tên là chuông ruộng rùa (Chuông Qui Điền). Cùng với tinh thần sùng mộ đạo Phật này, bà mẹ cua vua là ỷ Lan (Thái hậu Linh Nhân) cũng cho xây nhiều chùa ở khắp trong nước Lý Nhân Tông rất quan tâm đến nông nghiệp. Ông cho đắp đê để chống lũ lụt. Nổi tiếng là đê Cơ Xá hiện nay còn bãi Cơ Xá ở phía bắc Hà Nội, là chứng tích. Nǎm 1117, có lệnh cấm giết trộm trâu. Việc này, từ trước thái hậu ỷ Lan đã có chủ trương. Nay nhà nước mới định lệ rất khắt khe: Kẻ nào mổ trộm trâu thì phạt 80 trượng, đồ làm Khao giáp (làm kẻ hầu trong việc quân), vợ xử 80 trượng, đồ làm phu phục dịch ở nhà chǎn tằm. Trộm trâu, giết trâu đều phải bồi thường. Nếu láng giềng biết mà không tố cáo, cũng bị phạt đồ 80 trượng.
Lý Nhân Tông rất thích tổ chức những ngày hội, vừa để biểu dương công đức phật, theo khuynh hướng tôn giáo lúc bấy giờ của dân chúng, vừa để gây không khí vui chơi vào dịp đất nước được an bình thịnh trị. Và điều này cũng phù hợp với mỹ cam của ông suốt tuổi thanh niên cho đến lúc về già. Dưới triều đại của ông, các hội đua thuyền liên tiếp được tổ chức. Hội Nhân vương được tổ chức đến hai lần: 1077-l126. Hội Thiên Phật tổ chức và mời ca sứ Chiêm Thành đến xem. Đặc biệt có hội đèn Quảng Chiểu mở đến hai lần: 1120 và 1126, là những ngày hội hoa đǎng đích thực. Trong những dịp hội hè như thế, Lý Nhân Tông cũng tỏ ra là một người am hiểu và rất thích nghệ thuật. Ông thông hiểu âm luật, chú ý đến ca nhạc, thường trực tiếp góp ý với các đoàn nhạc công. Những ngày hội khác, nhân dịp khánh thành các chùa hay các bảo tháp, đều được Lý Nhân Tông cho phép tổ chức, nhiều khi ở xa kinh đô vẫn rất tưng bừng và nhà vua đích thân đến dự. Vua về tận núi Chương Sơn ở huyện ý Yên (Nam Định) khánh thành bảo tháp Vạn Phong Thành Thiên. Vua về Đội Sơn (ở huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam) khánh thành bảo tháp Sùng Thiện Diên Linh. Cùng một lúc với những hình thức hội hè rầm rộ này cả nước hồi bấy giờ đã dấy lên một khuynh hướng đi tìm các vật quý hiếm để dâng lên nhà vua. Không rõ thực tế các địa phương như thế nào, song sử sách ghi chép khá rõ là lúc này nhà vua được dân chúng và quan lại dâng tiến rất nhiều vật lạ. Có những hươu đen, hươu trắng, có cây cau một gốc 9 thân, có voi trắng, chim sẻ trắng, cá chiên vàng, có con rùa mắt đến 6 con ngươi, có những ngựa hồng có cựa. Chưa ai hiểu vì sao lại có rất nhiều đặc sản như vậy. Các sử gia sau này cho rằng vì Lý Nhân Tông ham thích vật lạ nên quan và dân chiều theo ý vua, đổ xô vào chuyện phát hiện xa gần.
Lý Nhân Tông có một điều không vui là ông không có con trai, mặc dù lập đến 3 hoàng hậu và thu nạp nhiều cung nhân mà vẫn cứ là con người hiếm hoi. Ông nuôi con trai của các anh em khá nhiều, cuối cùng lập Dương Hoán (con trai của Sùng Hiền Hầu) làm thái tử. Lời di chiếu của ông được mọi người ở các thế hệ công nhận là chân tình, sáng suốt, chứng tỏ ông là một nhà vua trung hậu. Người đời sau chì chê ông có một điều là khi mới lên ngôi (mới có 7 tuổi) ông còn quá thơ dại đã nghe theo lời mẹ đẻ (bà ỷ Lan) mà giết oan bà Dương Thái hậu cùng một số cung nữ (bị bắt phải chết theo). Điều này về sau chính bà ỷ Lan cũng thấy có phần hối hận.
Lý Nhân Tông làm vua đến nǎm 1127 thì mất, trị vì được 56 nǎm, thọ 63 tuổi.

Lý Thái Tổ (Giáp Tuất 974 – Mậu Thìn 1028)
Lý Công Uẩn (Giáp Tuất 974 – Mậu Thìn 1028).
Vua nhà Lý, người châu Cổ Pháp, lộ Bắc Giang, sinh ngày 12-2 năm Giáp Tuất (8-3-974). Ông là vua khai sáng nhà Lý tức Lý Thái tổ, lên ngôi lúc 35 tuổi.
Thân mẫu ông họ Phạm, năm lên 3 tuổi ông làm con nuôi sư Lý Khánh Vân, đến tuổi trưởng thành ông thông minh, có tài văn võ. Làm quan nhà tiền Lê đến chức Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ.
Nhà Tiền Lê suy vi vì Lê Ngọa Triều bạo ngược, triều thần là Đào Cam Mộc ngầm mưu với sư Nguyễn Vạn Hạnh thường khuyên ông hãy sẵn sàng lật đổ nhà Lê. Đến năm Kỉ Dậu 1009, Lê Ngọa Triều mất, ông cùng Hữu điện tiền chỉ huy sứ là Nguyễn Đề đem 500 quân Tùy Long vào cung canh giữ. Nhân thời cơ, Đào Cam Mộc giục ông hành động. Cuộc “đảo chính” thành công chớp nhoáng.
Ông lên ngôi vua sáng lập nghiệp Lý, dời đô ra thành Đại La (sau đổi thành Thăng Long – Hà Nội). Ông sửa sang chính trị, trọng dụng Đào Cam Mộc, gả em gái là An Quốc cho, phong tước Nghĩa Tín hầu. Mặt khác, ông cũng trọng đãi tăng sĩ, chú trọng việc đúc tượng xây chùa, thời kỳ này xem đạo Phật như là Quốc giáo.
Ngày 3-3 Mậu Thìn (31-3-1028) ông mất hưởng dương 54 tuổi, ở ngôi 19 năm, hiệu là Thuận Thiên.

Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 582-583.

LÝ THÁI TÔNG (LÝ PHẠT MÃ) 1028-1054

Vua Lý Thái Tông tên là Lý Phật Mã và có tên khác là Lý Đức Chính, là con trai trưởng của vua Thái tổ Lý Công Uẩn, lên ngôi vào đúng tuổi thanh niên cường tráng: 28 tuổi (ông sinh nǎm 1000 lên ngôi nǎm l028). Người thời bấy giờ thường hay truyền tụng những sự việc lạ lùng về con người này và về những chuyện lạ xảy ra trong tuổi thiếu thời của ông. Họ nói rằng sau gáy ông có đến 7 cái nốt ruồi tụ lại như chòm sao thất tinh (Sao Bắc Đẩu). Như thế là ông có tướng lạ. Lúc bé, chơi đùa với bọn trẻ trong cung, ông thường bắt chúng dàn hàng tả hữu trước sau để làm quân hầu hộ vệ cho mình. Ông cho một vị đạo sĩ cái áo. Đạo sĩ treo cái áo trong quán, nửa đêm thấy rồng vàng hiện ra. Người ta tin rằng đó là điềm báo hiệu ông rất xứng đáng nối ngôi thiên tử.
Nhà vua Lý Công Uẩn cũng rất chú ý đến người con trai của mình và có ý thức gây dựng cho con ngay từ khi mới trưởng thành. Ông cho Phật Mã được chính thức có danh hiệu là Đông Cung Thái tử, phong làm Khai Thiên vương, lập phủ ở phía ngoài nội cung để phật Mã được làm quen với các quan lại và dân chúng. Lúc ấy, Phật Mã mới có 13 tuổi (1012) . Nǎm 20 tuổi, Phật Mã đã được giao làm nguyên soái, cầm quân vào Nam đánh Chiêm Thành, tiến mãi đến núi Long Tị (nay thuộc huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình). Nǎm 24 tuổi, lại cầm quân đi đánh Phong Châu. Hai nǎm sau, đi đánh Diễn Châu. Nǎm 1027 lại lên phía Bắc, đánh châu Thát Nguyên (nay là huyện Tràng Định, Lạng Sơn). Suốt thời gian ở tuổi thanh niên, Lý Phật Mã đã được rèn luyện trên trường chinh chiến và đã bộc lộ tài nǎng thao lược của mình: đánh đâu thắng đó . Ông đã là võ tướng trước khi là Hoàng đế.
Nǎm Mậu Thìn ( 1028) vua Lý Thái Tổ mất. Theo đúng di chiếu thì Đông cung Thái tử Lý Phật Mã được lên ngôi. Anh em trai trong gia đình Lý Công Uẩn cũng khá đông, và người nào cũng có tài vũ dũng. Khi còn sống, Lý Thái Tổ không chỉ giao cho Phật Mã đi chỉ đạo các chiến dịch, mà các em của Phật Mã cũng đều được cho đi lập các chiến công. Vì vậy, Vua Thái Tổ vừa mất chưa làm lễ tế táng, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương và Đông Chính Vương đã mang quân bản bộ đến vây thành để tranh ngôi của Thái tử. Đông Chính Vương phục ở Long Thành, Dực Thánh Vương và Võ Đức Vương phục cửa Quảng Phúc. Họ quyết chờ khi Phật Mã xuất hiện thì cùng xông ra đánh úp, nếu thắng lợi thì tính đến việc chia quyền cho nhau.
Phật Mã biết âm mưu của mấy người em phản loạn ấy. Ông vội vàng tổ chức việc phòng giữ cung cấm, rồi cho gọi các tướng tá bộ hạ của mình vào bàn cách đối phó. Ông không muốn giữa lúc vua cha từ trần, anh em một nhà lại quay ra xung đột, tranh giành quyền lực với nhau. Ông nói: Ta lấy làm xấu hổ là tiên đế mới mất chưa quàn, mà cốt nhục đã giết nhau, há chẳng để cho, muôn đời chê cười sao?
Thực hiện ý định của mình, ông cho người ra khuyên các em nên hạ khí giới, cùng vào chịu tang cha, thực hiện di chiếu, không nên gây bạo loạn. Nhưng ba vị vương tử kia nhất định không nghe. Họ vẫn tiếp tục bao vây cung điện, xua quân tràn vào gấp gáp và mãnh liệt. Lý Phật Mã vừa lo vì nhiệm vụ, vừa buồn vì tình anh em, không biết giải quyết thế nào. Những tướng tá tâm phúc của ông đều ào lên, nhất định đòi ông phải đích thân ra tay trừng trị bọn phản nghịch.
Có người nói:
- Không nghĩ nghĩa cha con, không nghĩ tình cốt nhục, chỉ chǎm chǎm việc cướp ngôi, những người như thế đã trở thành giặc rồi, sao có thể xem là anh em được nữa?
Lý Phật Mã vẫn kiên trì:
- Ta muốn thuyết phục các vương cho họ tự ý rút quân thì họ sẽ không gây ra tội ác, chứ kéo quân ra giao chiến với nhau thì còn mặt mũi nào!
Thấy Lý Phật Mã cứ dùng dằng mà quân tướng của ba hoàng tử kia thì đánh vào cung gấp lắm, các tướng Lê Nhân Nghĩa, Quách Thịnh, Dương Bình.v.v... cùng đứng lên, kiên quyết giục phải ra quân. Trước tình thế này Lý Phật Mã không biết làm thế nào. Ông lắc đầu nói : - Ta chỉ đành vào làm lễ thành phục trước linh cữu của tiên đế thôi, mọi việc làm thế nào do các tướng định liệu lấy.

Ông vừa dứt lời một võ tướng đã rút gươm chạy như bay ra ngoài cung, xông thẳng vào chỗ Võ Đức Vương đang đứng. Viên tướng ấy thét lên:
Các hoàng tử muốn tranh giành ngôi báu, không nghĩ đến Hoàng đế vừa lâm chung, không vâng lời di chiếu, rõ ràng đã là quân phản nghịch. Tôi xin dâng các ngài thanh kiếm này.
Lưỡi kiếm vung lên, đầu Võ Đức Vương đã rơi xuống. Bọn tướng sĩ của phe phản nghịch bỏ chạy tán loạn. Mấy đội phục binh khác cũng hoảng hốt, vội vàng tháo lui, bị giết vô số . Hai hoàng tử kia là Đông Chính Vương và Dực Thánh Vương đều trốn được.
Viên tướng ấy chính là Lê Phụng Hiểu, người Bǎng Sơn (thôn Bưng, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa). Lý Phật Mã rất cảm ơn các tướng.
Ông lên ngôi đã thưởng cho tất cả mọi người. Riêng Lê Phụng Hiểu được một đặc ân. Về quê nhà mình, Lê Phụng Hiểu đứng trên núi Bǎng Sơn quǎng con dao ra. Dao rơi xuống đâu, thì ông được lấy đất ở đó làm nơi lập nghiệp của mình. Dao ném xa đến hơn mười dặm, ruộng thưởng cho Lê Phụng Hiểu kéo dài đến thôn Đa Mi, lệ thưởng này gọi là lệ thác đao điền, bắt đầu từ sự việc này.
Phật Mã chính thức lên ngôi, lấy niên hiệu là Thiên Thành khi ông vừa tròn 28 tuổi. Thấy tình hình mưu phản vừa qua của bọn em út mình, Lý Phật Mã nghĩ ngay đến việc phải có một hình thức thích hợp, một hiệu pháp tâm linh để ràng buộc mọi người, cố kết nhân âm. Và đây là việc làm đầu tiên của ông khi vừa lên ngôi báu. Ông cho dựng miếu thờ thần Đồng Cỏ (vị thần trống đồng ở núi Đan-nê Thanh Hóa). Miếu đặt ở bên hữu thành Đại La, sau chùa Thánh Thọ (Yên Thái-Hà Nội). Vua cho đắp đàn ở trong miếu, cắm cờ xí, chỉnh đốn đội ngũ, treo gươm giáo ở trước thần vị đọc lời thề rằng: "Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, ai bất hiếu, bất trung xin thần làm tội". Các quan từ cửa đông đi vào, đến trước thần vị cùng uống máu ǎn thề, từ đó thành lệ, hàng nǎm vào dịp đầu xuân, vua quan các triều đại đều phải dự lễ thề này.
Đã trở thành vua, sử gọi ông là Lý Thái Tông, song ông vẫn tiếp tục phát huy sở trường chiến đấu của mình. Suốt 27 nǎm ở ngôi - khi mất chưa vào lớp người sáu chục tuổi, ông sẵn sàng thân chinh ra nhiều mặt trận. Nǎm 33 tuổi, ông đi đánh Châu Định Nguyên, nǎm 35 tuổi đánh Châu ái, nǎm 39 tuổi đánh Nông Tồn Phúc, nǎm 42 tuổi đánh Nùng Trí Cao, nǎm 44 tuổi vào tận phía Nam đánh Chiêm Thành. Mỗi lần đánh trận, là mỗi lần ông ghi thêm những chiến công chói lọi. Trong cuộc sống ông luôn luôn tỏ ra là một con người trẻ trung với phong cách và đức tính của một thanh niên. Người ta thường nghĩ rằng tuổi trẻ là tuổi thường độ lượng hào phóng. Nếu điều đó đúng, thì quả là hợp với Lý Thái Tông. Sử sách ngày xưa cho rằng vào thời kỳ đạo Phật đang được thịnh hành ở nước ta nên nhiều ông vua đã thiên về nhân đạo, về lòng từ bi mà có những việc làm nhân nghĩa khiến cho người đời sau phải khâm phục. Lý Thái Tông thực sự là một ông vua có một tấm lòng bao dung, nhân hậu đối với anh em, bạn bè và cả đối phương nữa.
Vừa có tấm lòng bao dung, ông luôn chú ý đến luật pháp để giữ vững kỷ cương nề nếp. Đặc biệt, vào thế kỷ XI, Lý Thái Tông đã chú ý đến luật pháp và cho hình thành vǎn bản hẳn hoi: Sử ghi rõ việc ban Hình luật: "Trước kia việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ luật pháp câu nệ luật vǎn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót sai trung thư san định luật lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra môn loại, biến thành điều khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại, để cho người xem dễ hiểu. Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng, cho nên mới đổi niên hiệu là Minh Đạo, và đúc tiền Minh Đạo".
Ông biết tìm kiếm những người phò tá trung thành, do đó mới thu hoạch được nhiều thắng lợi.
Cũng trong biện pháp dùng người, có thể nói Lý Thái Tông thực sự là sáng suốt. Những viên quan được ông sử dụng, không ai lơ là trách nhiệm của mình, và đều giúp cho ông thành công trong mọi chủ trương. Sử còn chép một sự kiện chứng tỏ ông nhận xét người rất tài tình sáng suốt. Một viên tướng trong kinh có âm mưu làm phản. Ông quan sát người này và ngầm nói với các phi tần rằng người ấy thể nào cũng làm phản. Quả nhiên, sau chiến dịch ở ái Châu, viên quan có tên là Nguyễn Khánh ấy đã cùng với đồng đảng lộ rõ hình tích, đều bị ông bắt giam trị tội, các phi tần đều ca ngợi Lý Thái Tông: "Thánh nhân thấy được chỗ chưa hiện hình, biết trước việc chưa xảy ra, nay chính nhà vua cũng như bậc thánh ấy".
Tuổi thanh niên là tuổi yêu vǎn nghệ, giàu sáng tạo . Ông vua trẻ Lý Thái Tông cũng không kém mọi người về phương diện này. Sử có chép là khi đánh Chiêm Thành thắng trận, nhà vua rút quân về có đem theo các cung nữ nước này thành thạo hát múa khúc điệu Tây Thiên. Chưa rõ những điệu ca vũ này như thế nào, nhưng Tây Thiên là danh từ riêng chỉ ấn Độ. Đến nước người, biết học tập nghệ thuật của người - dù nước ấy là nước chiến bại, - đó là một thái độ, một quan niệm đúng. Sau này, ảnh hưởng nhạc Chiêm Thành vào Việt Nam sẽ được đậm hơn, và giờ đây ta còn phải ra công tìm hiểu, nhưng công lao trước nhất là phải kể từ Lý Thái Tông với những bước đi ban đầu. " Công lao đối với nghệ thuật Việt Nam của Lý Thái Tông, không chỉ dừng ở đó. Giờ đây, chúng ta thường nhắc đến Chùa Một Cột, xem đó là một niềm tự hào của kiến trúc Việt Nam, là một biểu tượng của những nét diệu kỳ đất Việt. Không nên quên rằng, Chùa Một Cột được xây dựng là do sáng kiến của Lý Thái Tông. Nhà vua kể rằng, -trong một giấc chiêm bao, ông thấy Phật Bà Quan Âm ngồi trên tòa sen dắt vua lên tòa. Sau đó vua đã cho dựng cột đá, làm tòa sen đặt lên như đã thấy trong mộng. Cột đá tòa sen ấy đã trở thành ngôi chùa, lúc đó (nǎm 1049) được lấy tên là chùa Diên Hựu. Cứ cho giấc mộng ấy là có thật đi nữa, song từ đó mà hình dung ra cách thức của một ngôi chùa với hình dáng độc đáo ấy, thì quả là sáng tạo (Gần 100 nǎm sau, lần trùng tu nǎm 1105, ta mới đào hồ Liên Hoa đài ở chung quanh cột) . Nhưng công đầu thuộc về vua Lý Thái Tông: Sử sách còn cho biết thêm rằng, ông vua trẻ Lý Thái Tông, dù ở ngôi cao, vẫn luôn luôn gắn bó với sản xuất, với lao động. Vào nǎm ông 38 tuổi, tháng 2, ông ngự ở cửa Bồ Hải cày ruộng tịch điền. Vua thân tế Thần Nông, tế xong tự cầm cày xuống ruộng. Các quan ta hữu có người can rằng: "Đó là công việc của nông phu, bệ hạ cần gì làm thế?" Vua nói: "Trẫm không tự cày thì lấy gì làm xôi cúng, lại lấy gì cho thiên hạ noi theo?". Nói xong đẩy cày ba lần rồi thôi.
Vào nǎm 1040, ông dạy cho cung nữ dệt được gấm vóc. "Tháng ấy, (tức là tháng hai cùng nǎm) xuống chiếu phát hết gấm vóc của nước Tống ở trong kho ra để may áo ban cho các quan, từ ngũ phẩm trở lên thì áo bào bằng gấm, từ cửu phẩm trở lên thì áo bào bằng vóc". Phát hết như vậy, để trong kho không còn vải vóc ngoại quốc nữa, từ nay chuyên dùng vải của nước mình, không dùng gấm vóc của nước Tống nữa.
Cả hai việc trên đây, sử gia Ngô Sĩ Liên đã đánh giá rất cao. Ông cho rằng nhà vua đã nêu gương cho thiên hạ, có đức tính kiệm ước, dẫn đến dân đông, của giàu: "Trong cái tốt lại còn cái tốt nữa".
Vua Lý Thái Tông trị vì được 27 nǎm, đến nǎm Giáp Ngọ (1054) thì mất thọ 55 tuổi.


Lý Thái Tông (Lý Phật Mã 1028 – 1054)
Vua Lý Thái Tổ sinh các hoàng tử: Thái tử Phật Mã, Dực Thánh Vương, Khai Quốc Vương Bồ, Đông Chính Vương Lực, Võ Đức Vương Hoàng.
Khi Vua Thái Tổ vừa mất, chưa kịp làm lễ tang, các hoàng tử Võ Đức Vương, Dực Thánh Vương, Đông Chính Vương đem quân vây Hoàng thành để tranh ngôi vua với Thái tử, nhờ có Lê Phụng Hiểu trung dũng xông ra chém chết Võ Đức Vương, hai hoàng tử kia bỏ chạy.
Triều thần cùng Lê Phụng Hiểu phò Thái tử Phật Mã lên ngôi Hoàng đế, niên hiệu Lý Thái Tông.
Lý Thái Tông sinh ngày 26 tháng 6 năm Canh Tý (1000). Vua là người trầm mặc, có trí, biết trước mọi việc, đánh đâu được đấy, năm 1020 quân Chiêm Thành quấy rối nơi biên ải phía Nam, Lý Thái Tổ sai Thái tử Phật Mã làm Nguyên soái, đã đánh tan quân Chiêm Thành, bắt được tướng giặc đem về.
Khi làm vua, Người quan tâm mở mang bờ cõi, xây dựng lực lượng để bảo vệ đất nước, đoàn kết với các dân tộc ít người, thể hiện rõ bằng cách ngày 7 tháng 3 năm Kỷ Tỵ (1029), Vua gả công chúa Bình Dương cho Châu mục Châu Lạng là Thân Thiện Thái.
Năm Giáp Ngọ (1054), Vua Lý Thái Tông mất, trị vì 26 năm, thọ 55 tuổi.

Lý Thần Tông (Lý Dương Hoán 1128 - 1138)
Vua Lý Nhân Tông không có con trai, lập con của em trai là Sùng Hiền Hầu Dương Hoán lên làm Thái tử, kế vị Hoàng đế là vua Lý Thần Tông.
Vua Lý Thần Tông khuyến khích phát triển nông nghiệp, thực hiện chính sách "ngụ binh ư nông", cho binh lính đổi phiên, cứ lần lượt 6 tháng một được về làm ruộng, do vậy nhân dân no đủ, an cư lạc nghiệp.
Lý Thần Tông mất năm Mậu Ngọ (1138), trị vì được 10 năm, thọ 23 tuổi.
Lý Thánh Tông tên húy là Nhật Tôn, sinh ngày 25 tháng 2 năm Quý Hợi (1023), là con bà Kim Thiên Thái Hậu họ Mai.
Nhà sử học Ngô Sỹ Liên ghi trong “Đại Việt sử ký toàn thư”: “... Vua khéo kế thừa, thực lòng thương dân, trọng việc làm ruộng, thương kẻ bị hình, vỗ về thu phục người xa, đặt khoa bác sĩ, hậu lễ dưỡng liêm, sửa sang việc văn, phòng bị việc võ, trong nước yên tĩnh, đáng gọi là bậc Vua tốt. Song nhọc sức xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”.
Lý Thánh Tông mất năm Nhâm Tý (1072) trị vì 18 năm, thọ 50 tuổi.
Lý Thường Kiệt (Kỉ Mùi 1019 - Ất Dậu 1105)
Lý Thường Kiệt (Kỉ Mùi 1019 - Ất Dậu 1105)
Danh tướng, đại thần nhà Lý. Chính họ tên là Ngô Tuấn, tự Thường Kiệt, sau được ban theo họ vua, nên lấy tự làm tên và mang họ Lý, thành Lý Thường Kiệt. Lúc mất cũng có tên thụy là Quảng Châu, quê ở phủ Thái Hòa, thành Thăng Long (nay thuộc Hà Nội).
Ông tài gồm văn võ, năm 23 tuổi được bổ làm Hoàng môn chi hậu rồi tăng dần đến Thái úy. Trải ba triều Thái tông, Thánh tông, Nhân tông, ông dày công phục vụ đất nước trong việc phá Tống, bình Chiêm, xây dựng đất nước phồn vinh.
Lý Nhân tông xem ông như người em ruột (thiên tử nghĩa đệ), đến cả nhân dân, sĩ phu cũng đều cảm phục tài đức của ông.
Năm Ất Dậu 1105, ông mất, thọ 86 tuổi, được truy tặng Kiểm hiệu Thái úy Việt Quốc Công.
Trong năm 1077, nhân mấy mươi vạn quân Tống do tướng Quách Quì, Triệu Tiết kéo sang xâm lược nước ta, ông đánh chận giặc trên suốt phòng tuyến sông Cầu, và đang đêm cho người tâm phúc đọc vang một bài thơ do ông viết trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát (thuộc địa phận sông Như Nguyệt, khúc sông Cầu, huyện Yên Phong, lộ Bắc Giang, nay là huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Giang). Bài thơ như một bản tuyên ngôn độc lập hùng tráng đầu tiên trong lịch sử dân tộc.
Nam quốc sơn hà nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.”
Bản dịch:
“Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở,
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.”
Các tác phẩm chính:
- Phòng tuyến sông Như Nguyệt (phá Tống).

Nguồn:Nguyễn Q. Thắng, Nguyễn Bá Thế 2006, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, Tr. 590.
Lý Tự Trọng (1915 - 1931)
Lý Tự Trọng (1915 - 1931). Tên thật là Lê Hữu Trọng quê xã Thạch Minh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, sinh tại bản May, tỉnh Na Khôn, Thái Lan. Năm 1926, anh sang Quảng Châu học trung học, rồi làm việc tại cơ quan Tổng bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí Hội. Ba năm sau, anh được phái về Sài Gòn công tác ở cơ quan Trung ương An Nam Cộng sản Đảng.
Ngày 9-2-1931, trong cuộc mít-tinh tổ chức tại cổng sân banh Mayer để kỷ niệm khởi nghĩa Yên Bái, anh bắn chết viên thanh tra cảnh sát Legrand, bảo vệ diễn giả Phan Bôi. Anh bị bắt, bị tra tấn chết đi sống lại, nhưng luôn luôn giữ khí tiết cách mạng khiến những cai ngục cũng phải kính nể, gọi anh là "Ông Nhỏ". Trước khi bị thực dân xử bắn, anh còn hát vang bài Quốc tế ca.

Nguồn: Trang trí blog mùa giáng sinh với hiệu ứng tuyết rơi, ông già Noel và giàn chuông cực hot | Sử Minh Thành http://smthanh.blogspot.com/2012/12/trang-tri-blog-mua-giang-sinh-voi-hieu.html#ixzz2RLJerMpo Follow us: @suminhthanh on Twitter | smthanh on Facebook