Trước
khi Christopher Columbus phát hiện ra châu Mỹ, trên “vùng đất mới” đã từng tồn
tại các nền văn minh cổ kính, rực rỡ của người Indian, trong đó có nền văn minh
của tộc người Maya. Vào khoảng năm 2600 TCN, người Maya đã định cư ở bán đảo
Yucatan,Trung Mỹ. Từ khoảng năm 300 SCN đến năm 900, nền văn minh của người
Maya bước lên đỉnh cao của lịch sử, với những quốc gia hùng mạnh, với một nền
văn minh rực rỡ, huy hoàng. Từ thế kỉ X trở đi, văn minh Maya dần dần đi vào
con đường suy tàn. Đến thế kỉ XVI, lãnh thổ của người Maya đã bị thực dân Tây
Ban Nha xâm chiếm. Nền văn minh Maya đã bị sụp đổ. Tuy vậy, những thành tựu to
lớn của nền văn minh này vẫn còn nguyên giá trị, đây chính là những bằng chứng
cụ thể, chứng minh cho thời kì phát triển đỉnh cao của người Maya cổ đại.
Địa lí và dân cư.
a.
Địa lí:
Nền văn
minh Maya tồn tại trên bán đảo Yucatan của Trung Mỹ, thuộc đông nam lãnh thổ
Mexico, Guatamala và Honduras ngày nay. Địa hình của khu vực Yucatan bao gồm
các cao nguyên và vùng đất thấp. Những cao nguyên gồm các ngọn núi lửa và các
dãy núi đá vôi. Trong năm có hai mùa, mùa mưa từ tháng 2 đến tháng 5, còn mùa
khô từ tháng cuối tháng 5 đến tháng giêng năm sau. Khí hậu của vùng cao nguyên
khô và lạnh hơn so với khí hậu vùng đất thấp.
Lượng
mưa hằng năm khoảng 400mm. Nước chảy ra biển Caribe hoặc vịnh Mexico theo hệ thống các sông
Usumacinta và Grijavla. Những con sông này là sự sống cho các nền văn minh bản
địa ở Trung Mỹ cổ đại.
Về tài
nguyên thiên nhiên có nhiều loại khoáng sản quý giá như: đá lửa, ngọc bích,
…các loại tài nguyên này được sử dụng để buôn bán, làm đồ trang sức và để trang
trí trong các kim tự tháp, đền thờ, lăng mộ..
b.
Dân cư:
Tổ tiên
của người Maya có nguồn gốc từ châu Á. Phía đông bắc của châu Á có một mũi đất
dài. Mũi đất này chỉ cách bán đảo Alaska (châu Mỹ) một eo biển hẹp có tên là
Bering. Vào khoảng 1 -2 vạn năm trước, khi nước biển rút xuống, dãy núi ở đáy
eo biển Bering nổi lên trên mặt biển. Eo biển này rộng 86km, qua sự biến đổi tự
nhiên trở thành một “cây cầu lục địa” thiên tạo. Cách ngày nay khoảng 12000 –
15000 năm, một số bộ lạc ở châu Á đã qua “cây cầu lục địa” này đến định cư ở châu
Mỹ. Những người dân di cư này đa số thuộc giống người Trung Quốc và người Mông
Cổ. Các nghiên cứu về nhân chủng cho thấy “người Maya có vóc dáng thấp đậm, tóc
đen và mắt màu sẫm”. Lúc đầu họ định cư ở Bắc Mỹ, dần dần họ mở rộng môi trường
sinh sống, di cư xuống Trung và Nam Mỹ.
2.
Lược sử tộc người Maya.
Vào khoảng
năm 2600 TCN người Maya đã đến định cư tại bán đảo Yucatan. Nền văn minh Maya bắt
đầu hình thành.
Vào khoảng
năm 300 TCN xã hội Maya bước vào thời kì phân chia giai cấp.
Khoảng
năm 250 TCN những trung tâm văn hóa của người Maya được xây dựng ở Guatemala.
Vào thế
kỉ I SCN các quốc gia thành thị của người Maya được thành lập.
Năm 300
SCN nền văn minh Maya bắt đầu đạt đến đỉnh cao với nhiều thành tựu rực rỡ về
toán học,thiên văn,lịch pháp và nghệ thuật…
Năm 600
lãnh thổ của người Maya được mở rộng ra khắp cả bán đảo Yucatan “văn minh Maya
bước vào thời kì hoàng kim tột bậc”.
Năm 900
các thành phố ở vùng đất phía nam Yucatan sụp đổ. Các thành phố ở phía Bác tiếp
tục phát triển. Chichen Itza trở thành trung tâm văn hóa của người Maya.
Từ thế
kỉ X nền văn minh của người Maya đi vào con đường sụp đổ.
Đầu thế
kỉ XVI thực dân TBN bắt đầy tiến hành xâm lược Trung Mỹ, đến năm 1541 hoàn
thành công cuộc chinh phục vùng đất này.
Hiện
nay tộc người Maya vẫn còn tồn tại ở các nước Mexico, Guatemala, Honduras.
3.
Thể chế chính trị - xã hội.
a.
Chính trị:
Lãnh thổ
của người Maya bao gồm nhiều vương quốc nhỏ. Các thành phố lớn của người Maya
như: Copan, Tikal, Palenque, Calakmul, Chichen Itza…
Người
lãnh đạo tối cao của đất nước được gọi là Khalaclvinit, nghĩa là “con người vĩ
đại” được cha truyền con nối và có quyền lực tối cao, có quyền điều hành và bổ
nhiệm người đứng đầu các quốc gia chư hầu, vạch đường lối đội nội, đối ngoại và
thu thuế. Giúp việc cho Khalacvinit là một Hội đồng nhà nước bao gồm các thủ lĩnh,
các giáo sĩ và các ủy viên có đặc quyền trong xã hội. Ngoài ra, bên cạnh
Khalaclvinit còn có một tăng lữ làm cố vấn, vị tăng lữ này có quyền thay mặt
vua cử các tăng lữ các cấp dưới quyền mình vào các chức vụ quan trọng trong nhà
nước.
Ở các địa
phương, quyền lực nằm trong tay Gatabop (tức các thủ lĩnh địa phương). Nhiệm kì
của một Gatabop kéo dài 3 năm. Trợ giúp cho Gatabop còn có một hội đồng ủy
viên.
Như vậy,
nhà nước của người Maya đã được thành lập trên cơ sở chính quyền được củng cố vững
chắc từ TW đến địa phương.
b.
Xã hội:
Xã hội
Maya được chia thành hai giai cấp: dân tự do và nô lệ. Một bộ phận không nhiều
dân tự do là tầng lớp thống trị, bao gồm những người có chức sắc, quý tộc và
tăng lữ. Quý tộc năm quyền lãnh đao nhà nước và dược quyền thừa kế. Tăng lữ là
người chịu trách nhiệm về các nghi thức tôn giáo, vừa là cố vấn cho thủ lĩnh tối
cáo Maya. Tăn lữ là người am hiểu tri thức về khoa học, cũng như về văn hóa vè
nghệ thuật. Họ là tần lớp duy nhất nắm lịch pháp. Chiếm đa số trong dân tự do
là những người lao động sản xuất. Họ là những người nồn dân, thương nhân làm
trung gian buôn bán, thợ thủ công chế tác đồ đá, đồ gỗ,…thợ dệt vải, thợ gốm và
một số người làm nghề khác.
Tầng lớp
thấp nhất trong xã hội là những người nô lệ. Họ là những phạm nhân bị kết án,
tù binh chiến tranh. Ngoài ra những người ăn cắp cũng bị giáng xuống làm nô lệ.
Con cái của nô lệ khi chưa đủ điều kiện để chuộc mình, vẫn bị xem là nô lệ. Kẻ
giết người, phụ nữ ly hôn, những đứa trẻ mồ côi, những người thiếu nợ không được,
những người tự do quan hệ với nô lệ đều trở thành nô lệ. Nô lệ phải làm tất cả
các công việc nặng nhọc trong xã hội: cày ruộng, chặt cây đốt rẫy, làm đường
sá, xây dựng nhà cửa, lâu đài cho tầng lớp thống trị, vận chuyển hàng hóa cho
thương gia, thậm chí phải lặn xuống biển để mò bắt cá...
4.
Kinh tế của người Maya.
Mô phỏng về cuộc sống của người Maya thời xưa |
Về nông
nghiệp, họ dùng phương pháp đốt rẫy làm nương và từ những giống thực vật hoang
dã thuần dưỡng ra các loại cây trồng như bắp, cà chua, khoai tây, bí rợ, các loại
đậu, hồ tiêu, ca cao… Họ còn trồng bông vải, lan lưỡi rồng và trồng những loại
thực vật làm nguyên liệu nhuộm màu xanh. Người Maya còn biết nuôi gà tây, chó
và ong mật. Họ đi săn bắn trong rừng cũng như đánh cá dưới biển bằng lực lượng
tập thể.
Về thủ
công nghiệp, người Maya biết làm đồ gốm với phương pháp nặn bằng tay. Họ biết
dùng gỗ, đá để làm dụng cụ lao động phục vụ các hoạt động sản xuất nông nghiệp,
thủ công nghiệp….Người Maya còng biết sử dụng khung dệt vải, dùng sợi bông, sợi
gai, long chim để dệt thành những tấm vải mang tính nghệ thuật cao. Họ cũng biết
dùng vàng, bạc, đồng, kẽm để chế tác thành những công cụ kim loại và đồ trang sức
tinh xảo.
Về
thương nghiệp, người Maya đã biết trao đổi hàng hóa. Mỗi thành phố, mỗi thôn
trang đều có một khu đất trống rộng để làm nơi trao đổi. Họ thường trao đổi và
mua bán các loại thực phẩm và đồ dùng hàng ngày. Họ cũng bắt đầu biết dùng ca
cao và đậu để làm vật trung gian trao đổi.
2. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA NỀN VĂN
MINH MAYA
2.1. Chữ viết
Một trong những thành tựu văn minh rực rỡ nhất của người
Maya là việc sáng tạo ra chữ viết. Những phát hiện khảo cổ học cho biết chữ viết
của người Maya xuất hiện trước Công Nguyên. “Vào
năm 1976, nhà khảo cổ J.Grokhen đã đào được ở Abai Tocalich (Guatemala) tấm bia
có khắc chữ của người Maya có niên đại từ thế kỷ IV trước Công Nguyên”[1].
Chữ viết của người Maya là chữ tượng hình, do nhiều hình vẽ và nhiều ký hiệu kết
hợp lại. Các ký hiệu này không chỉ tượng hình mà còn có thể tượng âm. Trong các
văn tự của mình, người Maya đã sử dụng khoảng 800 ký hiệu hoặc hình khắc, cộng
chung lại hơn 30000 từ. Cách thức đọc và viết chữ Maya là từ trái sang phải, từ
trên xuống dưới.
Người Maya đã chạm khắc chữ tượng hình lên các bia đá, bàn
thờ, bậc thang... Công trình nổi tiếng nhất liên quan đến chữ viết là “con đường bậc thang có chữ tượng hình”
thuộc thành phố Copan, phía tây nước Honduras. Chữ viết còn được khắc lên đồ
trang sức, ngọc thạch, vỏ ốc, xương thú hoặc được vẽ lên đồ gốm, trần nhà, vách
tường… Bên cạnh những chữ viết tượng hình thường có vẽ thêm nhiều hình minh họa
với màu sắc sặc sỡ.
Đối với người Maya, viết chữ là một hành động thiêng liêng để
ghi lại các sự kiện lịch sử, các đời vua chúa, chuyển động của các vì sao, ghi
ngày tháng, tên các vị thần và quyền hạn của họ, các nghi thức tế lễ, lễ vật và
lễ cúng tế thần linh, những lời cầu nguyện, những lời sấm truyền... cho các thế
hệ sau. Họ xem chữ viết là một món quà thần thánh từ các vị thần.Trong một xã hội
phân chia giai cấp như xã hội Maya, việc giành uy tín và địa vị lãnh đạo của tầng
lớp thống trị đã được sự hỗ trợ rất đắc lực của chữ viết.
Sau sự xâm lược của người Tây Ban Nha vào thế kỷ XVI, hầu hết
các bản chép tay của người Maya đều bị thiêu hủy. Cho đến nay, các nhà khoa học
đã tìm được một số bản chép tay còn lại. Đây là nguồn thông tin có giá trị về
tín ngưỡng tôn giáo của người Maya và các nghi lễ của họ, ghi chép về các vị thần
và chu kỳ chuyển động của sao Kim
Có thể nói, chữ tượng hình của người Maya là một trong những
hệ thống chữ viết cổ xưa nhất của nhân loại. Việc phát minh chữ viết của người
Maya đã đánh dấu một trình độ phát triển cao của nền văn minh cổ đại này.
2.2. Khoa học tự nhiên
- Toán học
Người Maya đã sáng tạo ra một nền toán học phát triển vượt bậc.
Toán học Maya nhằm tính toán một cách chính xác thời tiết, quyết định thời gian
gieo trồng và thu hoạch; tính toán chu kỳ chuyển động của Mặt trời, Mặt trăng,
sao Kim trong thiên văn và lịch pháp... Người Maya đã nắm được bốn phép tính số
học: cộng, trừ, nhân, chia và sử dụng các ký hiệu tượng hình để viết các chữ số
và tính toán.
Toán học của người Maya sử dụng hệ đếm nhị thập phân, dựa
trên cơ số 20 thay vì hệ thập phân cơ số 10 như ngày nay. Điều đó có nghĩa là nếu
số 0 nằm sau một số sẽ làm tăng giá trị số đó lên 20 lần, chứ không phải 10 lần.
Cùng với người Lưỡng Hà cổ đại và người Ấn Độ, người Maya là
một trong ba dân tộc đã độc lập sáng tạo ra “số 0” và vận dụng nó vào trong
toán học. Sự kiện số 0 ra đời đã đánh dấu trình độ cao về toán học của dân tộc
Maya.
Để biểu thị các con số, người Maya sử dụng các ký hiệu tượng
hình. Toán học Maya chủ yếu dựa vào ba ký hiệu: một dấu chấm có giá trị là 1
đơn vị, một dấu gạch ngang có giá trị là 5 đơn vị và một ký hiệu hình vỏ sò biểu
thị cho số 0. Ba ký hiệu này được kết hợp với nhau để tạo ra các số khác. Các số
trong toán học của người Maya được viết từ dưới lên.
Việc sáng tạo và phổ biến các ký hiệu toán học đã cho phép
người Maya, thậm chí cả những người không biết chữ, có thể thực hiện các phép
tính số học đơn giản. Điều này cần thiết cho việc giao lưu buôn bán.
Đối với dân tộc Maya, một vài con số được xem là những số
thiêng như: số 5, số 13, số 20, số 52. Với những thành tựu về toán học, nền văn
minh Maya đã tiến xa hơn so với các nền văn minh khác cùng thời ở châu Mỹ.
- Thiên văn học
Người Maya là các nhà toán học, đồng thời là những nhà thiên
văn tài giỏi.. Bởi vì thiên văn quan hệ chặt chẽ với hoạt động sản xuất nông
nghiệp. Họ biết sử dụng các ống kính bằng đá ngọc, đặt trên các giá gỗ để quan
sát bầu trời, tính toán và ghi chép kết quả vào trong biên niên sử của họ, hoặc
các bản chép tay. Qua hàng thế kỷ, với sự quan sát bằng mắt thường, người Maya
đã ghi lại chu kỳ chuyển động phức tạp của Mặt trời, Mặt trăng và sao Kim. Họ
có thể dự đoán được các tuần trăng, các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực, các
điểm phân mùa... với độ chính xác khá cao.
Mặc dù chưa biết Trái Đất hình cầu và quay quanh Mặt trời
nhưng các nhà thiên văn Maya đã tính được “độ
dài của một năm dương lịch là 365,242 ngày”[2],
xê dịch 0,0002 ngày so với cách tính lịch hiện nay. Theo tính toán của các nhà
thiên văn hiện đại, được trang bị những dụng cụ đo chính xác nhất, thì một
tháng Mặt trăng dài 29,53059 ngày. Trong khi đó, “người Maya tính được chu kỳ Mặt trăng quay quanh Trái Đất là 29,53
ngày”[3].
Ngoài ra, người Maya còn am hiểu về quỹ đạo của sao Kim. Họ
đã tính được chu kỳ chuyển động quanh Mặt trời của sao Kim là 584 ngày, lệch
0,08 ngày so với ngày nay (583,92 ngày).
Để thuận lợi cho việc quan sát bầu trời, người Maya đã xây dựng
các đài thiên văn tại nhiều thành phố, trong đó phải kể đến đài thiên văn El
Caracol (có nghĩa là ốc sên) ở thành phố Chichen Itza.
Tại các thành phố của người Maya, các
công trình dùng để tế lễ (đền thờ, kim tự tháp, quảng trường... ) được xây dựng
thẳng hàng với sự chuyển động của Mặt trời. Đây là sự thể hiện lòng tôn kính
các vị thần của người Maya.
- Lịch pháp
Dựa trên những phép tính toán và sự
quan sát thiên văn, người Maya đã sáng tạo ra lịch pháp Maya vào khoảng thế kỷ
I trước Công nguyên. Lịch Maya ra đời trên cơ sở kế thừa các nền văn minh cổ
Zapotec và Olmec. Đây là loại lịch khá chính xác so với lịch chúng ta đang sử dụng
ngày nay, được tính toán bởi các vị tư tế người Maya. Lịch Maya chủ yếu nhằm phục
vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp. Về sau lịch này mang tính chất thần bí và trở
thành cơ sở của tôn giáo. Người Maya chủ yếu xây dựng hai loại lịch: lịch Mặt
Trời (Dương lịch) và Thánh lịch.
Dương lịch (theo tiếng Maya là haab) được xây dựng trên cơ sở chu kì chuyển
động của Trái Đất quanh Mặt Trời. Người Maya tính được một năm Mặt Trời có 365
ngày. Một năm được chia thành 18 tháng, mỗi tháng có 20 ngày, 5 ngày “kiêng kỵ”
được đưa vào cuối năm. Mỗi tháng có một tên gọi khác nhau được đặt theo truyền
thống, không có liên quan gì đến vụ mùa hoặc lễ hội. Các ngày trong một tháng
được ghi bằng số thứ tự từ 0 đến 19 đặt trước tên tháng đó. Năm ngày “kiêng kỵ”
có tên là uayeb được xem là khoảng thời
gian không may mắn, có thể xảy ra điềm xấu hoặc cái chết.
Lịch Mặt Trời được dựa trên cơ sở các
đơn vị của thời gian bao gồm: kin, uinal,
tun, katun, baktun
Người Maya cũng sử dụng những đơn vị
thời gian lớn hơn sử dụng theo hệ đếm cơ số 20 như: pictun, calabtun, kinchiltun và analtun
Để tiên đoán tương lai tránh những điều
xui rủi, người Maya sử dụng Thánh lịch (tiếng Maya gọi là tzolkin). Thánh lịch chia một năm có 260 ngày, bao gồm 13 tháng với
mỗi tháng có 20 ngày. Khoảng thời gian 260 ngày được gọi là “thời gian thần thánh”[4].
Mỗi ngày được định tên bằng một số từ 1 đến 13, kết hợp với một trong hai mươi
tên ngày đại diện cho các vị thần, các lực lượng tự nhiên. Cũng giống như Dương
lịch, Thánh lịch có chu kì. Ngày cuối cùng của chu kì trước tiếp nối bằng ngày
đầu của chu kì sau.
Với loại Thánh lịch này, chỉ những vị
tăng lữ am hiểu về lịch pháp, chiêm tinh học mới có thể đọc được. Người Maya sử
dụng Thánh lịch để xác định các hoạt động có liên quan đến thần linh và con người
như: dự đoán tương lai, chọn ra những ngày tốt cho các vị vua, cho các cuộc chiến
tranh, cho sự hôn nhân... hoặc cho sự sinh nở.
Bên cạnh đó, người Maya cũng chú ý
tính lịch theo sự chuyển động của sao Kim, gọi là lịch sao Kim. Theo lịch này,
một năm sao Kim gồm 584 ngày. Cứ 104 năm 1 lần, ngày của Mặt Trời, sao Kim và
nghi lễ trùng khớp với nhau. Trong ngày này, người Maya tổ chức một lễ hội vô
cùng long trọng. Ngoài ra, người Maya cổ đại cũng sử dụng âm lịch. Họ hiểu rõ sự
khác nhau giữa âm lịch và dương lịch. Họ đã biết được rằng: “chu kì của Mặt Trăng là 29,53 ngày, 19 năm
mặt trời tương ứng với 235 tháng trăng”[5].
2.3. Tôn giáo, tín ngưỡng
Tôn giáo đóng một vai trò rất quan trọng
trong đời sống tinh thần của người Maya. Linh vật biểu trưng cho tôn giáo của họ
là rắn có lông vũ và con báo. “Đức tin của họ được thể hiện qua việc
xây dựng những kim tự tháp, đền thờ, sân bóng, quảng trường để thờ cúng thần
linh. Ở các nơi này, người Maya trang trí những bức tranh khắc vào tường mô tả
các nghi lễ hiến tế.
Người Maya quan niệm Oxlahunticu (nghĩa là vũ trụ) bao gồm mười
ba tầng xếp chồng lên nhau. Trong cách tính Dương lịch, người Maya quan niệm 20
ngày của mỗi tháng đều có một vị thần bảo trợ. Còn năm ngày “không may mắn” được
đưa vào cuối năm.
Người Maya theo đa thần giáo, thờ cúng
các vị thần mà họ cho rằng có ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp. Hai vị thần
quan trọng đối với họ là thần Mặt trời Itzamma và thần Mưa Chaac. Ngoài ra, họ
cũng tôn thờ các vị thần khác như: thần Sấm chớp Bacab, thần Gió Huracan, thần
Ngô Yum Kax, thần Chiến tranh Ek Chuah, thần Chết Ah Puch...
Hàng năm, việc tổ chức cúng tế cho các
vị thần rất được người Maya quan tâm. Người Maya có phong tục thả xuống giếng đồ
cúng tế cho thần Mưa và thần Nước. Những cái giếng này được người Maya gọi là cenote. Lễ vật hiến tế là những bức tượng
nhỏ bằng ngọc, những tác phẩm điêu khắc bằng đá, bằng vàng hoặc bằng đồng, thậm
chí là các thiếu nữ đồng trinh được người Maya ném xuống giếng.
Cũng như các tộc người khác ở
Trung Mỹ, người Maya tin vào sự sống sau cái chết. Chính vì vậy, những tập tục
cho việc mai táng được người Maya hết sức coi trọng. Người qua đời được chôn
theo rất nhiều vật dụng, bởi người Maya tin chúng sẽ được dùng ở kiếp sau. Những
người chết được bó chặt lại, và được đeo những chiếc mặt nạ. Thông thường, người
Maya mai táng người qua đời ngay dưới sàn nhà của họ. Tuy nhiên, họ cũng dùng
hình thức hỏa táng.
2.4. Nghệ thuật
- Kiến trúc:
Giống như kiến trúc Hy Lạp và kiến
trúc La Mã cổ đại, kiến trúc Maya có hàng nghìn năm tuổi và được đánh giá là một
nền nghệ thuật độc đáo và hiếm có. Các công trình kiến trúc của người Maya đã
ghi lại dấu ấn những thời kỳ phát triển huy hoàng của dân tộc. Do tính chất của
đời sống xã hội, kiến trúc Maya chịu ảnh hưởng từ tôn giáo, tín ngưỡng. Nhìn
chung, kiến trúc Maya chủ yếu gồm các loại hình: cung điện của vua chúa, quý tộc,
tăng lữ, kim tự tháp bậc thang hình chóp cụt, sân bóng, đền thờ.
Loại hình kiến trúc thứ nhất là lâu
đài, cung điện.
Các lâu đài, cung điện được xây dựng ở những khu đất bằng phẳng
thuộc trung tâm của thành phố. Cung điện thường có nhiều phòng, nhiều cửa ra
vào và cửa sổ. Các vòm giả và các vòm viền là nét chủ đạo trong nghệ thuật kiến
trúc của người Maya. Họ không xây trần nhà phẳng. Xung quanh tường là sự kết hợp
hài hòa giữa nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Sự phối hợp giữa các đường nét,
màu sắc, ánh sáng... cùng với các hình vẽ, các tượng đắp nổi đã mang lại hiệu
quả cao cho các lâu đài, cung điện. Loại hình kiến trúc cung điện
có mặt ở trung tâm các thành phố lớn của người Maya như: Copan, Tikal,
Palenque, Chichen Itza...
Loại hình kiến trúc thứ hai là kim tự
tháp bậc thang.
Kim tự tháp bậc thang của người Maya (gọi là El Castillo) được
sử dụng như các đền thờ tế thần linh. Kim tự tháp ở đây không đồ sộ như kim tự
tháp ở Ai Cập, nhưng lại là một công trình kiến trúc được chạm trổ công phu, tạo
nên một phong cách kiến trúc đặc sắc. Mỗi kim tự tháp đều có những bậc thang thẳng
đứng - đây là cầu nối giữa thế giới thần linh với thế giới trần tục. Các vị thần
sẽ từ thượng giới xuống trần gian bằng những cái thang này. Đó cũng là phương
tiện để các pháp sư cầu mưa thuận gió hòa.
Các kim tự tháp của người Maya mang
trên mình những dấu ấn nói lên sự hiểu biết cơ bản và chính xác về thiên văn học
của những người sáng tạo chúng, từ sự bố trí đến số lượng bậc đá. Người Maya
xây dựng kim tự tháp theo nguyên tắc: mỗi bậc thang tương ứng với một ngày, mỗi
tầng tương ứng với một tháng, bậc thang cao nhất trên đỉnh là ngày thứ 365 của
năm, và là bàn thờ các vị thần. Trên mặt phẳng ở đỉnh kim tự tháp, người Maya
xây đền thờ và dựng các bức tượng thần linh. Họ quan niệm đây là nơi gần nhất để
bước lên thiên đường. Khoảng đất rộng nằm trải dài dưới chân kim tự tháp là nơi
dân chúng tập trung hành lễ, cúng tế và ca múa trong các lễ hội.
Một
trong những kim tự tháp nổi tiếng nhất của người Maya là kim tự tháp Kukulcan ở
thành phố Chichen Itza. Công trình này cao 24 m, có đáy hình vuông, mỗi cạnh
dài 60 m. Trên đỉnh của kim tự tháp là đền thờ cao 6 m. Người Maya đã xây dựng
bốn cầu thang ở bốn hướng dẫn đến ngôi đền. Bốn cầu thang này có tổng cộng là
364 bậc thang (91 bậc/1 cầu thang), cộng với nền của đền thờ là 365 bậc, tượng
trưng cho 365 ngày trong một năm theo lịch của người Maya. Tầng trên cùng của
kim tự tháp Kukulcan là đền thờ thần rắn Kukulcan (Rắn Lông Vũ), được biểu
tượng bằng một con vật có cả những đặc tính của chim và rắn. Trong ngôi đền còn
có ngai vàng hình con báo châu Mỹ được đẽo từ đá, sơn màu đỏ, tráng ngọc bích của
thần KuKulcan. Mặt ngoài của kim tự tháp được tô điểm bằng nhiều hoa văn, được
sắp xếp cầu kì, tạo nên các dải băng ngang phân bức tường thành những khoảng
cách đều nhau. Những bậc thang đi lên của kim tự tháp đều nhìn thẳng về các hướng
chính bắc, chính nam, chính đông và chính tây. Vào buổi sáng, ánh tà dương sẽ rọi
thẳng vào phần đầu đến phần đuôi của bức tượng thần rắn đặt trên chop đỉnh tượng
trưng cho sự thức tỉnh của thần rắn KuKulcan.
Loại hình kiến trúc thứ ba là sân bóng.
Tại các thành phố Maya có rất nhiều sân bóng được xây dựng với
diện tích lớn, có hình chữ I hoa với các bức tường bao quanh. Sân bóng được tìm
thấy tại thành phố Chichen Itza có hai bức tường dài 83 m, cao 8,2 m, chạy song
song. Khoảng cách giữa hai bức tường là 27 m. Chính giữa sân bóng là một khoảnh
đất có hình chữ nhật dài 135 m và rộng 68 m. Sân bóng được dùng để chơi môn
“bóng đá” của người Maya. Môn chơi bóng này không đơn thuần là một môn thể thao
mà còn là một nghi lễ tôn giáo. Theo quan niệm của người Maya, sân bóng tượng
trưng cho thế giới, quả bóng mang hình ảnh của mặt trời, mặt trăng. Tại hai đầu
sân bóng có xây hai đền thờ. Những người tham gia thi đấu đều đội mũ cứng, đeo
găng tay, đeo các tấm da để bảo vệ hai bên hông và đầu gối. Các cầu thủ dùng
vai, đầu gối và hông để đưa một quả bóng làm bằng cao su, nặng khoảng 3 kg, qua
những cái vòng bằng đá được gắn vào hai phía của sân bóng. Đội trưởng của đội
thua cuộc sẽ bị đem ra tế thần.
Loại hình kiến trúc thứ tư là những
ngôi đền.
Người Maya đã xây dựng các ngôi đền và được sử dụng như các
công trình mai táng dành cho những người quyền quý. Tiêu biểu cho loại hình kiến
trúc này là đền Đề Tặng. Ngôi đền được xây dựng vào thế kỷ VII sau Công Nguyên ở
thành phố Palenque (phía nam nước Mexico ngày nay). Phía bên trong đền Đề Tặng
là lăng mộ của vị vua vĩ đại nhất Palenque, Hanab Pakal. Ông là vị vua thứ X của
vương triều Palenque. Năm 615 sau Công Nguyên, ông lên ngôi vua khi mới 12 tuổi.
Hanab Pakal bắt đầu khởi công xây dựng ngôi đền vào khoảng năm 675. Công trình
này được Chan Bahlam, người thừa kế của Pakal, hoàn thành vào khoảng năm 700.
Lăng mộ Pakal là một trong những công trình kiến trúc ấn tượng
nhất, tinh vi nhất của người Maya cổ đại. Đây là một căn phòng mái cong dạng
vòng, được xây bằng những tảng đá vôi trắng khổng lò, bên trong cất giữ quan
tài bằng đá được chạm trổ công phu. Các tảng đá có khối lượng 12 – 15 tấn được
sử dụng trong những chi tiết khác nhau của lăng mộ. Các vách tường trong
phòng và quan tài đều được chạm trổ các
hình ảnh mô tả con người hay các nam thần kèm theo là những câu đề tặng và ngày
tháng bằng chữ tượng hình. Một nét đặc biệt của đền đề tặng là việc các nhà khảo
cổ phát hiện ra một ống dẫn bằng đá nằm dọc theo mép cầu thang dẫn từ hầm mộ đến
phần móng của ngôi đền ở trên đỉnh. Mục đích của ống dẫn này như là một con đường
để linh hồn của vị vua quá cố Pakal có thể giao tiếp với những người còn sống
tham gia các nghi lễ diễn ra trong đền ở phía trên một cách thuận tiện.
Có thể nói đền đề tặng với lăng mộ pakal là một công trình cổ
đại nổi tiếng nhất của người Maya, vừa có giá trị về nghệ thuật, vừa có giá trị
về mặt lịch sử. Công trình giúp chúng ta hiểu biết hơn về bản chất xã hội Maya
cổ đại và thế giới quan của họ.
-
Nghệ thuật tạo hình
Nghệ thuật điêu khắc của người Maya đạt
đến trình độ rất cao. Với những chạm khắc không gian ba chiều, nghệ thuật điêu
khắc đã đi vào cuộc sống thường nhật của những người dân. Trước cửa nhà là những
bức tượng, mặt nạ đắp nổi hình ảnh các vị thần đầy quyền năng. Chất liệu ban đầu
là gỗ, sau thay bằng đá vôi. Những hình hoa văn chạm nổi trên tường, trên các cửa
ra vào, cột đá bốn mặt với những hình khắc nổi là những công trình điêu khắc có
giá trị, chứng tỏ tài năng của những nghệ nhân Maya cổ xưa. Bia mộ thường có
hình cột 4 mặt mang chân dung vị vua ở mặt trước và các chữ tượng hình ở mặt
sau. Trên nắp đậy quan tài Pakal ở đền Đề Tặng , người Maya chạm khắc hình ảnh
của nhà vua Pakal vào giờ phút lâm chung, một con rắn siêu nhiên há hốc miệng
tượng trưng cho cổng vào thế giới khác, nơi ở của tiền nhân. Nhà vua ăn vận như
một nam thần Maize, một vị thần thường được liên tưởng đến sự hình thành thế giới
và hồi sinh. Phía sau Pakal là một cây to tượng trưng cho thế giới với con rắn
trời đang quấn trên cành. Trên ngọn cây là một con chim siêu nhiên đang đậu, tượng
trưng cho Shaman giáo và ma thuật. “Toàn
bộ thông điệp ngụ ý Pakal vào lúc lâm chung đang được tái sinh như một vị thần
và tổ tiên được sùng kính”[6].
So với điêu khắc, nghệ thuật hội họa của
người Maya cũng khá công phu. Sự hài hòa trên nền trang trí và tỉ lệ các hình vẽ,
cách thức sử dụng độ tương phản giữa ánh sáng và bóng tối là một trong những
nét đặc trưng của nghệ thuật Maya.
Các
tác phẩm hội họa hiện còn lại rất ít. Các nhà khảo cổ đã tìm thấy ở di tích
Bonampak những bức bích họa trên tường với vẻ đẹp trường tồn. Đây là một trong
những bức bích họa cổ điển có giá trị nghệ thuật cao. Niên đại sáng tác bích họa
này vào khoảng thế kỷ VI đến thế kỷ VIII sau Công Nguyên, được thực hiện trên
vách tường một ngôi đền với màu sắc sặc sỡ, đường nét rõ ràng. Những bức bích họa
này cho thấy cuộc sống sinh động của người Maya như: cảnh quân chiến thắng trở
về, dân nộp cống phẩm, xét xử tù nhân... “Các
bức tranh tường này đẹp đến mức người ta đã so sánh chúng với các bức tranh của
Ý thời kỳ Phục hưng. Chúng cho thấy khả năng phối cảnh và tình cảm sống động
trong bố cục”[7].
Nghệ thuật trang trí đồ gốm của người
Maya cũng được biết đến với dáng vẻ lịch lãm, kết hợp với nhiều hình ảnh, màu sắc
phong phú. Nhiều tác phẩm gốm được tìm thấy trong các hang động, trong các hầm
mộ và đây là đồ vật của các nghi lễ hiến tế, mai táng...
Bên cạnh đó, như nhiều tộc người khác ở
Trung Mỹ, người Maya rất ưa thích những sản phẩm bằng đá quý. Tại lăng mộ Pakal
ở Palenque, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một chiếc mặt nạ khảm đá ngọc bích ở trong
quan tài và các đồ vật khác chế tạo bằng ngọc bích, xà cừ ở trong áo quan. Các
nhà nghiên cứu đã cho rằng “nghệ thuật của
Maya mang phong cách đặc biệt của Ai Cập, Trung Quốc và Ấn Độ”[8].
2.5 công nghệ của người Maya
Tộc người Maya ngày nay |
Nền
văn minh Maya đã đạt được nhiều thành tựu trong các lĩnh vực khoa học ,kĩ thuật
và công nghệ. Thời kì đầu( thời đại đồ đá) người Maya đã sử dụng va chế tác
thành thạo các dụng cụ cắt gọt từ đá. Ngoài ra họ cũng biết sử dụng và chế tạo
các dụng cụ từ cao su . thời nguyên thủy người Maya cũng biết sử dụng cao su để
bọc lót cho các dụng cụ có tay cầm như dao,vũ khí…và biết làm ra những đôi giày
từ cao su không thấm nước.
Đặc
biệt người Maya đã nắm được công nghệ và kĩ thuật lam muối,sư dụng chúng như những
hang hóa để trao đổi với các cư dân khác trong vùng.
III.
Quá trình sụp đổ.
Sau một
thời kì phát triển huy hoàng, rực rỡ, vào khoảng
thế kỷ thứ 9, nền văn minh Maya bắt đầu suy tàn, với rất nhiều các thành phố ở
các vùng đất thấp bị bỏ hoang. Năm 869 việc xây dựng bị ngừng
lại ở Tikal mở đầu cho sự suy tàn của thành phố này. Năm 899 Tikal bị bỏ trống.
Năm 900 các thành phố ở vùng đất phía nam Yucatan sụp đổ. Từ thế kỉ X, người
Toltec mở rộng sự thống trị của họ ở Yucatan. Nhiều quốc gia Maya bị xâm lược.Nền
văn minh của người Maya đi vào con đường sụp đổ.
Sự sụp
đổ của nền văn minh Maya là một trong những bí ẩn lớn của ngành khảo cổ hiện đại.
Cho đến nay, các nhà khoa học chưa thong nhất với nhau về nguyên nhân sụp đổ của
nền văn minh Maya. Nhiều giả thuyết đã được đưa ra, trong đó nguyên nhân hạn
hán được hâu hết các nhà nghiên cứu chấp nhận.
Tuy
nhiên, đó không phải là nguyên nhân duy nhất cho sự suy tàn của
văn minh Maya. Ngoài ra,có thể giải
thích cho sự sụp đổ của người Maya như bệnh tật, chiến tranh,yếu tố chính trị,
xã hội,…
2.1. Hạn
hán
Theo mô
hình mô phỏng thời tiết mà các nhà khoa học sử dụng để tính toán mức độ tàn phá
rừng, họ nhận thấy hạn hán đóng một vai trò quan trọng trong quá trình sụp đổ
này, nhưng chính người Maya đã làm thiên tai này trở nên trầm trọng hơn.Sự
sụp đổ và bỏ hoang của Maya ở bán đảo Yucatan là kết quả củ mối tương quan con
người-môi tường phức tạp. Họ đã phá rừng để xây
thành phố và trồng các loại cây lương thực.
Các nhà
khoa học đã xác định được 3 thời kỳ hạn hán nghiêm trọng xảy ra vào năm 810,
860 và 910 sau Công nguyên. Những mốc thời gian trên trung hợp với thời kì suy
thoái của nền văn minh Maya.
Ngoài ra,
lượng mưa trong suốt thế kỷ thứ 9 giảm dưới mức trung bình. Vì vậy, đó là một
thời kỳ khô hạn với 3 đợt hạn hán.
Ngoài ra, các nhà khoa học cũng đã
nghiên cứu về những nguyên nhân khác.Dựa trên phương pháp mô hình hóa, nhóm
nghiên cứu của Ben Cook nhận thấy hoạt động chặt phá rừng mưa lấy đất làm nông
nghiệp của người Maya đã làm tăng hệ số phản xạ của bề mặt đất, khiến lượng mưa
giảm. Theo lý giải của ông: “đất nông nghiệp và đồng cỏ với khả năng phản xạ
cao hơn thường hấp thụ ít năng lượng mặt trời hơn đất rừng mưa” và đương nhiên,
khả năng phản xạ tăng sẽ dẫn tới những thay đổi về lượng mưa.
Vận hành các mô hình thời tiết với dữ liệu
mới, nhóm nghiên cứu nhận thấy lượng mưa trung bình tại Yucatan đã giảm từ 10%
đến 20%, gây ra những ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tại khu vực gần các trung tâm dân
cư lớn của Maya. Trong suốt giai đoạn cuối cùng của đế chế Maya, từ năm 800 đến
950 SCN, tổng lượng mưa giảm tới 20%. Các mô hình thời tiết cũng cho kết quả
trùng khớp với những ghi chép về lượng mưa trong cùng giai đoạn qua nghiên cứu
các măng đá từ hang động.
2.2.sự thay đổi cơ cấu chính trị –
kinh tế- xã hội
Theo những nghiên cứu gần đây, động lực thúc đẩy sự
phát triển nền kinh tế và xã hội cũng thay đổi khi tuyến đường thương mại chuyển
từ trên cạn thông qua bán đảo Yucatán sang những con tàu trên biển. Sự thay đổi
đó làm cho nền kinh tế dần yếu đi. Đối mặt với những thách thức khó khăn trên,
tầng lớp cai trị, chiếm một phần rất nhỏ dân số, không có khả năng quản lý đất
nước dẫn đến xung đột bắt đầu nổ ra.
cơ cấu về kinh tế, chính trị cũ do những người tự phong
là thần linh nắm giữ dần phân rã.Nông dân, thợ thủ công và tầng lớp khác dần dần
từ bỏ nhà cửa, thành phố để đi tìm cơ hội phát triển ở những nơi khác.
2.3. chiến tranh
Chẳng dân tộc hay quốc gia nào khác giết dân tộc Maya, mà họ tự tìm tới
bờ vực của sự diệt vong. Người Maya rất hiếu chiến và khát máu. Những dòng chữ
trên các bảng gốm và cả trên các cuộn giấy còn giữ lại được đã chứng minh người
Maya là một dân tộc vô cùng hiếu chiến. Cuộc sống của họ được đánh dấu bằng những
nghi lễ tàn bạo và liên miên chìm trong chiến tranh đẫm máu. Hai bộ tộc mạnh nhất
thời bấy giờ nằm dưới sự chỉ huy của Tikal và Calakmul. Họ cùng thống trị và sử
dụng hơn 50 bộ lạc nhỏ hơn làm quân chư hầu tàn sát lẫn nhau. Nhận định này được
đưa ra bởi Nikolai Grube, chuyên gia hàng đầu về văn hóa Maya và là người có
công chính trong việc giải mã chữ viết cổ. Ngoài ra theo ông, nền văn minh Maya
tan rã không đột ngột như mọi người xưa nay vẫn dự đoán, mà đây là một quá
trình đau đớn và chậm chạp. Bởi không chỉ tại chiến tranh, người Maya còn chết
vì đói.
Cuối thế kỷ
thứ 9, các con kênh do người Maya đào không còn nước. Dù khoa học kỹ thuật thời
kỳ đó phát triển mạnh, người Maya vẫn không
thể
đào sâu xuống lòng đất tới 150 m để lấy nước.
Thiếu nước, nền
nông nghiệp đình đốn, người Maya thiếu lương thực. Trong khi các cuộc xung đột
đẫm máu vẫn xảy ra triền miên, khiến các nền văn minh này dần biến mất.
C. Kết luận.
Nền văn minh của người Maya cổ đại là một trong những nền
văn minh có trình độ phát triển cao ở châu Mỹ. Trong suốt quá trình tồn tại của
mình, người Maya đã có những sáng tạo nổi bật về nhiều lĩnh vực: chữ viết, khoa
học tự nhiên, tôn giáo tín ngưỡng, nghệ thuật...
Người Maya đã sáng tạo ra hệ thống chữ viết riêng biệt, đóng
góp thêm vào bộ sưu tập những hệ thống văn tự cổ xưa nhất của nhân loại. Chữ viết
của người Maya là chữ viết duy nhất ở Trung Mỹ cổ đại, phản ánh trình độ văn
minh của dân tộc này. Với những nét chạm khắc tượng hình trên các bia đá, bàn
thờ, bậc thang, các bản chép tay... , người Maya đã ghi lại lịch sử phát triển
của dân tộc mình, những hiểu biết của họ về toán học, thiên văn, lịch pháp, các
nghi lễ tôn giáo...
Trình độ toán học và thiên văn học của người Maya đã khiến
cho chúng ta phải thực sự kinh ngạc. Những kết quả tính toán của họ gần đúng với
kết quả tính toán ngày nay. Về mặt toán học, người Maya đã sáng tạo ra một nền
toán học phát triển vượt bậc so với các nền văn minh châu Mỹ khác cùng thời nhằm
phục vụ cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp, thiên văn và lịch pháp. Kỹ thuật
toán học của người Maya cổ đại khiến cho các nhà toán học hiện nay không khỏi
kinh ngạc, nhất là việc phát minh ra số 0. Đây là thành tựu toán học nổi bật nhất
của người Maya đóng góp vào nền văn minh nhân loại. Về thiên văn và lịch pháp,
người Maya đã có những đóng góp rất quan trọng. Người Maya đã tính được chu kỳ
chuyển động của Mặt trời, Mặt trăng gần chính xác so với tính toán hiện nay. Từ
những hiểu biết về thiên văn học, người Maya đã xây dựng một hệ thống lịch pháp
cho riêng mình. Bên cạnh đó, một đóng góp nữa của người Maya về thiên văn học
là những hiểu biết về sao Kim. Các nhà thiên văn Maya đã tính được quỹ đạo của
sao Kim là 584 ngày, lệch 0,08 ngày so với ngày nay (583,92 ngày). Đây là một
con số khá chuẩn xác mà người Maya với phương pháp tính toán của mình đã có từ
mấynghìn năm trước.
Bên cạnh những thành tựu về văn tự,
khoa học tự nhiên, những công trình kiến trúc, điêu khắc và hội họa của người
Maya là những công trình mang tính nghệ thuật cao. Những quần thể kim tự tháp ở
Tikal, đền Đề Tặng và lăng mộ vua Pakal ở Palenque, kim tự tháp Kukulcan và sân
bóng ở Chichen Itza... không chỉ có ý nghĩa về mặt nghệ thuật mà còn mang ý nghĩa
về mặt tôn giáo, tín ngưỡng. Những cung điện được thiết kế cao sang, hùng vĩ với
hàng trăm bức phù điêu, chạm khắc đầy tính dân tộc ở bên trong. Những kim tự
tháp, đền thờ mặc dù trải qua hàng ngàn năm vẫn đứng sừng sững cùng sông núi.
Người Maya cổ đại, với bàn tay và khối óc bình dị, đã khắc phục muôn vàn khó
khăn, tay không tạo dựng nên những công trình kiếm trúc, đã viết nên những
trang sử hào hùng của dân tộc với một nghị lực hiếm có. Những công trình đó đã
làm giàu thêm kho tàng các công trình kiến trúc cổ đại trên thế giới, sánh
ngang hàng với những kim tự tháp Ai Cập, vườn treo Babylon (Lưỡng Hà), đền thờ
Partheon (Hy Lạp), Vạn Lý Trường Thành (Trung Quốc)... Do vậy, vào tháng 7 năm
2007, thành phố cổ Chichen Itza của người Maya đã được bình chọn là một trong bảy
kỳ quan thế giới mới.
Người
Maya từng một thời bước lên đỉnh cao của lịch sử với những quốc gia hùng mạnh,
với một nền văn minh phát triển rực rỡ, huy hoàng; giờ đây họ chỉ được biết đến
như một tộc người thiểu số, sống trong các thôn làng xa xôi, hẻo lánh. Sau những
biến động về lịch sử, ngày nay, lớp hậu duệ của dân tộc Maya cổ đại vẫn sinh sống
ở một số quốc gia Trung Mỹ như: Mexico, Guatemala, Honduras... Mặc dù vậy, các
tập quán văn hóa truyền thống của người Maya vẫn được bảo tồn, duy trì và phát
triển, như một lời nhắn nhủ đối với các thế hệ sau, hãy ghi nhận, giữ gìn và
phát huy tốt những giá trị của nền văn minh Maya
[1] Bùi Đẹp
(biên soạn). Di sản thế giới, tập 8,
tái bản lần thứ hai. Nhà xuất bản Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2005, tr. 70
[2] Nguyễn
Kim Anh, Lê Thị Thu Hà. Nền văn minh Maya
vùng Trung Mỹ. Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 8, 2007, tr. 44
[3] Almanach những nền văn minh thế giới. Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin,
Hà Nội, 1996, tr. 769
[4] Phạm Hồng
Việt, Nguyễn Thị Huệ. Sự phát hiện các nền văn hóa của người da đỏ
trên lục địa châu Mỹ. Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1991, tr. 28
[5] Nguyễn
Kim Anh, Lê Thị Thu Hà. Nền văn minh Maya
vùng Trung Mỹ, Sđd, tr. 44
[6] Chris Scarre. 70 kỳ quan thế giới cổ đại. Nhà xuất bản Mỹ thuật, Hà Nội, 2003, tr. 77
[7] Henri Lehmann.
Các nền văn minh thời tiền Colomb,
Sđd, tr. 77
[8] Lưu Minh
Hàn (chủ biên). Lịch sử thế giới, tập
2 (Thời trung cổ), Sđd, tr. 490
Young Be A sưu tầm và chỉnh sữa:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nhận xét