I.
Khaùi
quaùt veà thaân theá vua Leâ Thaùnh Toâng:
Lê
Thánh Tông, tự là Tư Thành, còn có tên là Hạo, hiệu Thiên Nam Động Chủ. Ông là
con Thái Tông và bà Ngô Thị Ngọc Dao – con gái thái bảo Ngô Từ, một công thần
khai quốc của nhà Lê, Ông là con trai thứ tư và cũng là con trai út của Thái
Tông. Sinh ngày 27 tháng 7 năm Nhâm Tuất (1442), tại nhà ông ngoại ở Mạn Tây
Nam Quốc Tử Giám, nay là khu đất chùa Huy Văn, Hà Nội. Là một trong những Ông
vua ở ngôi lâu nhất trong lịch sử các Ông vua ở Việt Nam.
Lê Tư
Thành vốn không phải là người sẽ kế vị, theo chính danh. Từ nhỏ, ông được giáo
dục ở Quốc Tử Giám, giống như người anh cùng cha khác mẹ là Lê Nhân Tông (Lê
Bang Cơ - con bà Nguyễn Thị Anh) đang làm vua Đại Việt.
Năm 1459, người anh cả cùng cha khác
mẹ của ông là Lê Nghi Dân tiến hành đảo chính và giết Lê Nhân Tông lên ngôi. Tư
Thành không bị vua anh sát hại trong vụ này.
Chín tháng sau, một cuộc đảo chính
thứ hai do Nguyễn Xí và Đinh Liệt cầm đầu đã giết chết Lê Nghi Dân. Nguyễn Xí
và Định Liệt là hai tướng thân cận của Lê Lợi vẫn còn sống sót sau các biến cố
chính trị kể từ khi Lê Lợi chết. Ban đầu, các đại thần định mời anh thứ 2 của
Tư Thành là Lê Khắc Xương (em Nghi Dân, anh Bang Cơ) lên ngôi nhưng Khắc Xương
từ chối không muốn nhận ngôi báu. Họ đề nghị Lê Tư Thành ra làm vua và ông đã
chấp thuận.
Ngày 8 tháng 6, năm Canh Thìn 1460,
Lê Tư Thành lên ngôi, lấy niên hiệu là Quang Thuận. Năm đó, Hoàng đế mới 18
tuổi. Ông chỉ định Nguyễn Xí và Đinh Liệt vào các chức quan cao nhất của triều
đình, nắm giữ binh quyền.
Trong lúc trị vì, ông đã đưa ra
nhiều cải cách trong hệ thống quân sự, hành chính, kinh tế, giáo dục và luật
pháp. Ông cũng đã mở mang bờ cõi nước Đại Việt bằng cách đánh chiếm thủ đô của
nước Chiêm Thành, sát nhập một phần lãnh thổ Chiêm Thành vào Đại Việt; đồng
thời có cuộc hành quân về phía Tây đất nước. Ông trị vì từ năm 1460 đến 1497 và
được nhiều nhà sử học đánh giá là một trong những vị vua tài ba trong lịch sử
Việt Nam. Ông cũng được coi là nhà văn hóa và là người coi trọng người hiền
tài. Thụy hiệu do vua Lê Hiến Tông đặt là Sùng Thiên Quảng Vận Cao Minh Quang
Chính Chí Đức Đại Công Thánh Văn Thần Vũ Đạt Hiếu Thuần Hoàng Đế.
II.
Nhaân
caùch vaø söï nghieäp vua Leâ Thaùnh Toâng
Leâ Thaùnh Toâng moät con ngöôøi hieáu nghóa
Ngay
sau khi lên ngôi vua, vua liền tôn phong mẹ Ngô Thị Ngọc Dao làm Quang Phục
Hoàng Thái Hậu và đích thân ra chùa Huy Văn đón mẹ vào cung, Hoàng Thái Hậu
thói thác không nghe vua Lê Thánh Tông đành chìu theo ý mẹ, bèn ra lệnh cho tu
sửa lại chùa và cho xây điện tại chùa để Hoàng Thái Hậu ở, hàng tuần thường lệ
ra thăm mẹ. Tôn tạo lại Phúc Quang Từ Đường tại làng Xuân Thượng, hương Đồng
Bảng, huyện Yên Định, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa do vua Lê Thánh Tông xây
dựng thờ dòng dỗi Hưng Quốc Công Ngô Kinh, Dụ vương Ngô Từ.
Năm Quý mùi, niên
hiệu Quang Thuận thứ hai (1461), vua về thăm Lam Kinh, đến thăm quê ngoại, bèn báo hiếu cho mẹ, đã cho dựng Thuần Mẫu
Đường ngay trên nền đất mẹ đã chào đời để mẹ có dịp về que hương khói cho ông
bà cha mẹ của mình.
Năm Canh Thìn
1472, Hồng Đức thứ III, vua Thánh Tông vân mệnh Hoàng Thái Hậu về quê ngoại
tham Thuần Mẫu Đường, thương yêu mẹ, vua bèn
cho xây dựng điện Thừa Hoa, về sau tục gọi là “Phủ nhi” ở Đồng Phang quê
mẹ để có dịp mẹ về quê yên ở và làm nơi phụng trị mẹ khi mẹ lâm chung. Điện
Thừa Hoa được xây gần Từ Đường Phúc Quang họ Ngô và Thuần Mẫu Đường tại nền đất
cũ do Thượng Thư minh triều Hoàng Phúc trước đây chọn.
Đối với quốc gia
dân tộc, vua Lê Thánh Tông ở ngôi Hoàng Đế chí tôn, nhưng đối với mẹ trong gia
đình, lúc nào Thánh Tông cũng đặt mình ở vị trí người con, không nề hà thức
khuya, dậy sớm, không quản công lao khó nhọc. Mặc dù quốc gia da đoan lắm
chuyện, nhưng vua Lê Thánh Tông vẫn giành nhiều giờ ở bên mẹ để săn sóc từ lúc
ăn cho đến lúc ngủ.
Nhà vua thường
đọc sách ngâm thơ, kể chuyện cổ tích pha lẫn hài hước để mẹ vui, vua hết sức
lưu ý chìu chuộng mẹ. Mỗi khi mẹ có điều gì buồn bực, vua hết lòng vỗ về, tự
nhận mọi việc là do mình gây nên, và cúi đầu xin mẹ thứ tha. Mỗi khi mẹ ốm vua
ở luôn bên mẹ, năng giấc gầu hạ, tự tay vua sắc thuốc và bưng thuốc cho mẹ
uống, săn sóc mẹ rất cẩn thận và chu đáo; có lúc bận việc không tự tay sắc
thuốc cho mẹ, thì tì nữ sắc thuốc nhưng chính vua rót thuốc và nếm thử trước
khi đưa mẹ uống.
Khi mời mẹ dùng
cơm chay hay những món ăn khác, vua dều nếm xông, có ngon và hợp với khẩu vị
của mẹ không thì mới dám bưng vào dâng lên mẹ. Mẹ vua là người rất sùng đạo
Phật, ở tu tại chùa Huy Văn ngoài Hoàng cung, sự gặp gỡ Hoàng cung đi lại
khó khăn. Vua bèn chìu theo ý của mẹ cho
xây dựng ngôi chùa nguy nga lộng lẫy tại Hoàng cung rồi đón mẹ đến ở đó.
Đối với bà Phùng
Thị Thuận nhạc mẫu, vua cũng rất mực cung kính, săn sóc như mẹ ruột. Khi nhạc
mẫu vào kinh để dự lễ đăng quang, vua mời nhạc mẫu vào ở ngay trong Hoàng cung
với mẹ đẻ để phụng dưỡng hai mẹ như một. Vua Lê Thánh Tông là một người thấm
nhuần đạo đức nho học uyên bác nhưng cũng là người sùng bái đạo Phật – tôn giáo
mà mẹ mình sùng bái, tín ngưỡng, chính vua đã cho xây dựng chùa Hương Tích ở Hà
Đông thành một danh lam thắng cảnh ở Bắc Hà và trở thành một di tích quốc gia
tầm cỡ.
Vua Lê Thánh Tông rất coi trọng việc đào tạo nhân tài ,phát triển đất nước
BIA TIẾN SĨ |
Vua Lê Thánh Tông rất chú trọng đến việc đào tạo nhân
tài ra giúp nước qua đường thi cử. Kể từ năm Quang Thuận thứ 4 (1463) đến năm
Hông Đức thú 27 (1496), nhà vua liên tiếp cho mở 12 khoa thi đình do đích thân
nhà vua chủ trì và khảo hạch. Trong 12 khoa thi đó đã tuyển chọn đúng cách 10
Trạng Nguyên, 10 Bảng Nhãn, 10 Thám Hoa, và 472 Hoàng Giáp cùng Tiến sĩ. Nhiều
người nổi danh như thân nhân trung, Thái Thuận đào cử, Lương Thế Vinh, Nguyễn
Trực, Lê Trực, Quách Đình Bảo… Vua Lê Thánh Tông rất quan tâm đến việc hưng
thịnh của đất nước, mở mang dân trí, vua là người đầu tiên cho mở nhiều thái
học, dựng nhà nội trú sinh viên, lập bí thư để chứa sách vỡ, dựng bia tại văn
miếu để ghi tên những người đỗ đạt từ tiến sĩ trở lên, nước ta có văn bia từ
đó. Trong các thời đại đế chế của nước ta chưa có thời nào sự nghiệp giáo dục
đào tạo nhân tài lại phát triển mạnh mẽ đạt đến đỉnh cao như thời vua Lê Thánh
Tông, chưa bao giờ trí thức lại được trọng vọng và được tạo điều kiện thuận lợi
để phát huy tài trí phục vụ quốc gia như đời vua Lê Thánh Tông đã làm.
Kiến thức uyên
bác của vau Lê Thánh Tông không phải để
ngâm vịnh cho vui, nhà vua đã sử dụng nó để rèn luyện nhân cách, nâng cao tầm
trí tuệ của bản thân, ngỏ hàu xứng đáng với trách nhiệm người trị vì của đất
nước nổi tiếng là văn hiến.
Vua Lê Thánh Tông
có quan niệm ở ngôi vua không phải là để hưởng thụ, ăn chơi nhàn hạ, mà phải
nhọc nhằn, vất vả với mục đích cao cả hơn là:
“Điều hòa muôn việc theo thời tiết
Khắp chốn hân hoang hưởng thái bình”
Nhà vua đã sử
dụng tài năng văn chương, sức mạnh trí tuệ của mình để chỉ đạo công cuộc xây dựng
phát triển kinh tế xã hội, cũng cố quốc phòng, bảo đảm cho đất nước độc lập,
nhân dân Đại Việt được hưởng thái bình thịnh trị, an cư, lạc nghiệp.
Tài năng lãnh đạo
của vua còn biểu hiện ở chổ vua đã nhận thức, ý thức trách nhiệm và khả năng
tập hợp quanh mình những tài năng trí tuệ lỗi lạc của đất nước lúc gấy giờ.
Qua việc xướng
họa thơ văn của Hội Tao Đàn vua Lê Thánh Tông đã rút ngắn khoảng cách giữa vua
tôi, lắng nghe được ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của quyền thần tài giỏi để tự
sữa mình, phát hiện được những phẩm chất, năng lực của những kẽ dưới trướng để
cất nhắc sử dụng trong mục đích xây dựng đất nước phồn vinh.
Thưở bé thơ vua
Lê Thánh Tông ở với mẹ ngoài cung đình, thời niên thiếu lại du hành khắp đó đây trong nước, được tiếp xúc với cuộc sống
đời thường của người lao động, lên làm vua, mặc dù bề bận công việc nhưng vua
cũng năng động đi khắp chốn khắp nơi. Do đó nhà vua hiểu được tình cảm sâu sa
của nhân dân, diễn biến của cuộc sống trong xã hội, và với trí tuệ minh mẫn, óc
sáng tạo của mình, khả năng tập hợp các trí tuệ của quần thần, kịp thời đưa ra
các giải pháp hữu hiệu đưa đất nước đạt tới cực thịnh so với các triều vua
trước và sau đó.
Vua Lê Thánh Tông trong việc xây dựng luật pháp
Sau khi đuổi giặc
ra khỏi nước. Đức Thái Tổ Cao Hoàng đế Lê Lợi đã la ngay đến việc lập luật
pháp. Các vua Lê Thái Tông, và Lê Nhân Tông ban hành thêm một số điều luật về
xét xử, kiện tụng, sở hữu tài sản. Năm 1483, dưới sự trị vì của vua Lê Thánh
Tông, Ông đã cho ra đời bộ “Luật Hồng Đức”. Bộ luật gồm 722 điều, và được chia
thành 16 chương. Đây là bộ luật hoàn hảo, quy mô và cũng là bộ luật đầu tiên
của nước ta có giá trị lâu đời đối với lịch sử thế giới trong niềm tự hào dân
tộc. Trong 722 điều của “Luật Hồng Đức” có 49 điều thuộc về nguyên tắc chung và
673 điều quy định về các tội phạm cụ thể. Trong 63 điều quy định về các tội
ohamj đó có đến 172 điều có nội dung quy định tội phạmn của các quan lại và các
nhà quý tộc. Điều đó phản ánh khá rõ nét tính dân tộc và hoàn toàn đúng trong
việc đấu tranh phòng chống tội phạm trong hàng ngũ quan lại và con nhà quý tộc,
bao gồm 10 tội ác xúc phạm đến lòng trung với vua với nước, tội xâm phạm đến
trách vụ của nhà vua giao phó, tội xâm phạm đến quyền lợi của dân.
Bộ luật Hồng Đức
được lưu lại đến ngày nay bao gồm 13 chương với 700 điều, nội dung cơ bản của
bộ luật như sau:
* Giữ cho đất
nước luôn ở thế chủ động đối phó với quân xâm lược nước ngoài
* Giữ nghiêm kỷ cương,
phép nước;
* Chấn hưng nông nghiệp, coi nông nghiệp là
nền tảng của sự ổn định kinh tế xã hội;
* Mở rộng giao
lưu khuyến khích thủ công nghiệp, thương nghiệp lành mạnh
* Bảo vệ quyền sở hữu tài sản của muôn dân,
chống tham nhũng triệt để, chống sự lạm quyền và ức hiếp dân chúng.
* Khuyến khích
nuôi dưỡng thuần phong mỹ tục;
* Bênh vực và bảo
vệ quyền lợi phụ nữ;
* Chính sách hình
sự nghiêm minh nhưng nhân đạo.
Lê Thánh Tông là
người thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã ban hành. Một lần, ông đã thu lại
quyền chỉ huy của tổng quân đô đốc Lê Thiệt vì con trai Lê Thiệt giữa ban ngày
phóng ngựa trên đường phố và dung túng gia nô đánh người. Lê Thánh Tông thường
bảo với các quan rằng: "Pháp luật là phép tắc chung của Nhà nước, ta và
các người phải cùng tuân theo".
Đối với bộ “Luật
Hồng Đức” thời gian không chỉ là sự thử thách. Thời gian càng trôi qua, Bộ luật
càng trở nên sáng giá về nhiều mặt cho hậu thế, cho từng người và cho cả nước,
cho những người chịu sự quản lý, và cho cả những người được giao thực hiện công
tác quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Hơn năm trăm năm
trôi qua mà bộ luật vẫn còn có những điều còn mới mẽ, và đúng thực trạng như
ngày nào. Một bộ luật có thể nói là tuyệt vời, là đỉnh cao của thời đại, một
thời đại cường thịnh, huy hoàng của nhà nước Đại Việt mà vua Lê Thánh Tông la
nhà lãnh đạo đầy tài năng và sáng suốt.
Vua Lê Thánh Tông trong việc cải cách hành chính
Phàm lệ, những
cải cách sáng suốt hiệu quả, kịp thời về hành chính, về quản lý đáp ứng được
những yêu cầu cấp bách thiết thực có thể làm tăng năng xuất lao động vượt trội
lên đến 200 – 300%, thậm chí còn có thẻ cao hơn nữa. Ngược lại dù có tìm năng,
có đầy đủ cơ sở vật chất trong tay nhưng cách quảm lý chậm tiến lạc hậu trì trệ
với chế độ hành chính bảo thủ quan liêu, cửa quyền, làm mất lòng dân, không bao
lâu nhà nước xã hội đứng trước nguy cơ bị xô đẩy vào những cuộc khủng hoảng
triền miên sâu sắc nếu không nói là sụp đổ
Đó là những kết
luận mà nhiều học giả, nhiều chính trị gia, nhiều nhà kinh doanh đương thời đều
chấp nhận. Đem ứng dụng vào lịch sử nước nhà, đặc biệt là vào thời vua Lê Thánh
Tông, chúng ta có thể cho rằng luận điểm này là hoàn toàn đúng.
Trong quá trình
trị vì, vua Lê Thánh Tông đã kiên trì tiến hành cách tân, cải tổ nền hành chính
quốc gia, thể hiện qua 4 khâu trọng yếu là
Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước từ Trung Ương đến địa phương
ü Gọn nhẹ và có hiệu lực, không có những thủ
tục rườm rà, bãi bỏ các chức trung gian như: tướng quốc, Bộc xạ, Tư dồ…
ü Chọn những người thật sự có tài có đức, trí
công vô tu, vì đất nước vì dân tộc
ü Loại bỏ kịp thời những tệ nạn, tham quan, ô
lại, những người không xứng chức.
Các đời vua trước
Lê Thánh Tông thường giao quyền điều khiển trực tiếp các quan lại cho một vị Tể
tướng hay Tướng quốc. Đến thời Lê Thánh Tông, thì Ông đã bỏ đi chức Tể tướng,
và trực tiếp quản lý các quan lại, nắm trọn quyền trong tay, bằng cách như vậy
nhà vua đã buộc mình phải ngày đêm suy nghĩ lo toan việc nước. Ở đỉnh cao của
quyền lực nhà vua không để cho mình đắm say vào việc hưởng lạc rồi xao nhãng
việc triều chính như các vị vua tiền hiệm mắc phải. Và cúng với biện pháp đó
nhà vua đã bỏ được nguy cơ lộng quyền lấn áp vua, hay lật đổ vua của quan đầu
triều
Để lo toan công
việc sự vụ, hàng ngày, vua Lê Thánh Tông đã tổ chức các cơ quan giúp việc:
Hàn lâm viện: cơ quan làm nhiệm vụ soạn thảo các vụ,
chiếu, chỉ cùng các mệnh lệnh khác của vua
Đông các: các cơ quan làm nhiệm vụ rà soát, sửa lại
các văn bản do Hàn Lâm Viện soạn thảo trước khi trình lên vua duyệt
Trung thư giám: cơ quan chuyên ghi chép, lưu giữ các sắc
lệnh, tước hiệu do nhà vua sắc phong cho những người trong hoàng tộc.
Bí thư giám: cơ quan lưu trữ và trông coi thư viện của
nhà vua
Hoàng môn đỉnh: nơi giữ ấn tín của nhà vua
Năm Quang Thuận
thứ 7 (1466), vua Lê Thánh Tông đành lập 6 bộ với những nhiệm vụ được quy định
rất rõ ràng (Đời Trần chỉ cs 4 bộ là Hình, Lại. Binh, Hộ; đời Lê Thái Tổ chỉ có
3 bộ là: Lễ, Lại, Dân.
Lại bộ: trông coi việc tuyển bổ, thăng thưởng và
thăng quan tước
Lễ bộ: trông coi việc tổ chức, xếp đặt và tiến
hành các nghi lễ, yến tiệc, học hành, thi cử…
Hộ bộ: trông coi việc ruộng đất, tài chính, hộ
khẩu, tô thuế, lương bổng của quan, binh
Binh bộ: trông coi việc quân đội, đặt quan trấn
thủ nơi biên cảnh, tổ chức việc giữ gìn, bảo vệ các nơi hiểm yếu
Hình bộ: trông coi việc thi hành luật pháp lệnh,
hình pháp, xét lại các việc tù đày, kiện cáo.
Công bộ: trông coi việc xây dựng, sửa chữa cầu
đường cung điện, thành trì và quản đốc thợ thuyền.
Lê Thánh Tông còn
tổ chức ra một số cơ quan chuyên môn không lệ thuộc vào 6 bộ như:
Thông chính ty: cơ quan trông coi việc chuyển đạt công
văn, chỉ dụ của triều đình tới các nơi khác
Quốc tử giám: cơ quan giáo dục cao nhất trong nước giữ
nhiệm vụ trông coi Văn Miếu, đền thờ Khổng Tử và lưu giữ văn bia các vị thi đỗ
trong các kỳ thi hương.
Quốc sử viện: cơ quan giữ việc ghi chép, biên soạn lịch
sử, nhà vua nói gì, làm gì, ưa chuộng những gì… Quốc sử viện ghi chép trung
thưc để lưu lại làm guơng cho đời sau. Nhà vua đương nhiệm không được quyền đọc
những điều ghi chép về nhà vua và Hoàng tộc.
Nhằm khuyến
khích, mở mang nông nghiệp, dựa trên quan niệm: “nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ” làm nền
tảng. Vua Lê Thánh Tông cho lập ra 4 sở chuyên môn (sở đồng điền, sở tầm tang,
sở thực thái, sở điền mục).
Để kiểm tra, giám
sát công việc của 6 bộ, vua Thánh Tông cho lập ra 6 khoa và Ngự sử đài 6 khoa
gắn liền với công việc của 6 bộ là: Lại khoa, Lễ khoa, Hộ khoa, Hình khoa, Công
khoa, và Binh khoa.
Theo cách tổ chức
và phân định nhiệm vụ của các Bộ, các Khoa, các Ngự sử đài, và các cơ quan hỗ
trợ khác, Vua Thánh Tông đã giám sát, kiểm soát bộ máy chặt chẽ bộ máy thừa
hành. Không một bộ nào hay một viên quan nào có thể lộng hành thao túng pháp
luật, kỷ cương hoặc đứng ra ngoài sự giám sát của nhà vua.
Tổ chức bộ máy chính quyền địa phương của vua Lê Thánh Tông
Đời vua Lê Thái
Tổ toàn bộ lãnh thổ vương quốc Đại Việt được chia làm 5 đạo:
Đông đạo gồm các lộ Thượng Hông, Hạ Hồng, Thượng Sách, Hạ Sách, và trấn An Bang
Tây đạo gồm các trấn Tuyên Quang, Tam Giang, Hưng Hóa, và Gia Hưng
Bắc đạo gồm các trấn Bắc Giang, Lạng Giang, và Thái Nguyên
Nam
đạo gồm các lộ Khoái Châu,
Lý Nhân, Tân Hưng, Kiến Xương, và Thiên Trường.
Hải tây đạo gồm các lộ: Thanh Hóa, Nghệ An, Tân Bình, và Thuận
Hóa
Đến tháng 6 năm
1446, niên hiệu Quang Thuận thứ 7, vua Lê Thánh Tông ra sắc chỉ chia toàn bộ
lãnh thổ Vương quốc Đại Việt thành 12 đạo Thừa Tuyên gồm:
1. Thanh Hóa
2. Nghệ An
3. Thuận Hóa
4. Nam Sách (Hải Dương)
5. Thiên Trường (Sơn Nam)
6. Quốc Oai (Sơn Tây)
7. Bắc Giang (Kinh Bắc)
8. An Bang
9. Hưng Hóa
10. Tuyên Quang
11. Thái Nguyên
12. Lạng Sơn
Năm 1471, sau đại
thắng quân Chiêm vua Lê Thánh Tông đã sáp nhập vùng đất từ Nam đèo Hải Vân đến
tận dèo Đại Lãnh vào lãnh thổ nước Đại Việt đặt tên là Quảng Nam đạo Thừa
Tuyên. Đó là đạo thứ 13 của nước ta và địa danh Quảng Nam cũng bắt đầu có từ đó.
Đứng đầu mõi đạo
Thừa Tuyên (còn gọi là xứ) có 3 ty:
Ø
Đô Ty:
phụ trách quân đội, giữ gìn an ninh.
Ø
Thừa
Ty: phụ trách công việc hành chính, dân sự, thuế khóa, hộ tịch
Ø
HiếnTy:
phụ trách việc thanh tra quan lại, việc xử án, thi hành pháp luật.
Sau khi nghiên
cứu công phu về Lê Thánh Tông, một sử gia người Pháp tên là May – Bon đã có
nhận xét: “Nhà vua tỏ ra là một nhà cai trị khôn khéo và ta cố thể nói rằng, tổ
chức của nước Nam
đã bắt đầu từ đời này”.
Caûi caùch veø cheá ñoä tuyeån choïn vaø söû duïng quan chöùc
Hơn ai hết vua Lê
Thánh Tông thấy được sự lộng quyền tại các địa phương cũng như Trung Ương cảu
các quan lại. Do đó, nhà vua, ngay sau khi lên ngôi đã kiên trì thực hiện quan
điểm: “Trăm quan là nguồn gốc của trị, loạn. Người có đức, có tài nhậm chức thì
trị, người vô tài thất đức nắm giữ quyền hành thì loạn”. Trên quan điểm tuyển
dụng người có đức có tài để giao phó trọng trách trị nước an dân làm điều hệ
tọng suốt 38 năm ở ngôi của vua.
Vấn đề cha truyền
con nối là quan điểm muôn thuở của ý thức hệ đế chế trong duy trì quyền lực,
vua Lê Thánh Tông vẫn coi trọng xuất xứ của dòng máu truyền thống. Và đồng thời
để tưởng nhớ công lao các đại thần có công với đất nước và Hoàng tộc. Nhà vua
vẫn phong tước phong quan cho họ. Nhưng tước, hàm đó chỉ là tản quan, hư hàm có
nghĩa là không có chức, có quyền thực sự, chủ yếu là nhà vua tuyển chon người
có tài, có dức ra gánh các việc nước căn cứ vào nguồn gốc xuất thân, được đặt
ra 3 tiêu chuẩn tuyển lựa:
Cảnh nho sỹ đi thi-Minh họa |
|
Ä
Hạng
nhất gồm 3 danh: Đệ nhất danh (tức Trạng Nguyên); Đệ nhị danh (tức Bảng Nhãn);
Đệ tam danh (tức Thám hoa). Cả 3 người này gọi là “Tam khôi”
Ä
Hạng
nhì: gọi chung là Hoàng giáp
Ä
Hạng
ba: gọi chung là Tiến sĩ
Nhà vua quy định
rất nghiêm ngặt, gắt gao trong vấn đề thi cử đối với quan chấm thi, người dự
thi, người dấu sách vỡ đem vào trường thi…
Bảo cử: Việc thi cử thời trước tiến hành không
định kỳ, thường thì cứ 3 – 4 năm thì có một kỳ thi Hộ thi Đình, gặp những lúc
biến quốc, triều suy thì hàng chục năm mới có một kỳ thi. Để thu hút thật sự
những người có tài có đưc ra gánh vác việc nước. Vua Lê Thánh Tông bèn đặt ra
lệ “Bảo cử”. Trong bảo cử, người đứng ra bảo cử phải lấy tước vị phảm hàm của
mình ra bảo đảm rằng người được bảo cử xứng tài, xứng chức có đức hạnh, xứng
đáng được giao chức vị cho họ. Theo điều 174 luật Hồng Đức “Những người làm
nhiệm vụ cử người mà không cử được người giỏi thì bị biếm hoặc bị phạt theo
luật nặng nhẹ, nếu vì tình riêng hoặc lấy tiền thì xử tội nặng thêm hai bậc. Cụ
thể, năm Quang Thuận thứ 8 (1467), vào ngày 20/12 vua xuống chiếu giam Lương
Như Ngọc vì tiến cử Trần Quý Huyên không ohair là người tài giỏi, thu lại văn
bằng của Quý Huyên.
Việc bảo cử chỉ
được tiến hành với những chức danh đang khuyết. Ngườ bảo cử phải lập hồ sơ về
người được bảo cử trình lên Lại bọ xét.
Tập ấm: các con và cháu đức tôn của các vị quan
Công, Hầu, Bá, Tử, Nam là các tước của vua phong cho
các con của anh trai, chị em gái nhà vua. Con trưởng của các quan van, quan võ
từ bát phẩm đến nhất phẩm nếu được nhận xét là có khiếu chăm học thì cho được
vào học ở Chiêu Văn quán. Cứ 3 năm 1 lần quan Tư Huấn phải tâu đầy đủ hạnh
kiểm, tánh nết, học vấn của con cháu các quan nói trên lên bộ Lễ đẻ tổ chưc thi
Khảo. Ai đô thì được bổ vào các chưc thư lại. Muốn được bổ nhiệm làm quan thì
phải đỗ trong các kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình. Những người không đỗ đều có
sức khẻo thì được sung vào ngạch võ giai
Với lệ tập ấm,
vua Lê Thánh Tông đã tạo điều kiện thuận lợi cho những người trong Hoàng tộc và
con cháu các quan đại thần, có công với triều đại, được trao dồi học tập nâng
cao kiến thức và tu dưỡng đạo đức để đảm đương tốt việc nước, với điều kiện
phải thi đỗ trong các kỳ thi. Làm như vậy, nhà vua vừa có được những người tài
đức có năng lực đáng tin cậy để lo cho nước. Đấy cũng là cách thể hiện sự trọng
đãi đối với những người thuộc dòng họ nhà
vua và đông thời biết ơn đối vỡi những bậc huân công cũng như ngăn ngừa
được tệ nạn ỷ thế, ỷ quyền sắp ép dân chúng của con cháu lớp người quyền quý.
Phuïc hoài vaø phaùt trieån kinh teá
Chế độ hà khắc
tham tàn bạo ngược của nhà Minh trong suốt 20 năm đô hộ và hàng chục năm chiến
tranh giải phóng của khởi nghĩa Lam Sơn, đã tàn phá nghiêm trọng nền kinh tế
nước ta vốn đã suy yếu trong những thập kỷ cuối thời Trần đến chỗ cạn kiệt.
Đồng ruộng, làng sớm điêu tàn, nhân dân phiêu tán. Thủ công, thương nghiệp suy
sụp. Sau khi đất nước được độc lập, nhà nước và nhân dân với ý thức tự hào dân
tộc sâu sắc đang vươn cao. Vua Lê Thái Tổ, bằng tài năng kiệt xuất của mình, đã
lãnh đạo nhân dân khắc phục hậu quả do chính sách đô hộ, sự suy tàn thời Trần,
cùng với chiến tranh để lại, nhanh chống khôi phuch sản xuất, hàn gắn các vết
thương chiến tranh. Và đến đời vua Lê Thánh Tông, bằng tài năng và kiến thức
sẳn có của vị minh quân, đưa nền kinh tế nước nhà phát triển nhanh chống, rực
rở, ở thời trị vì của vua.
Những nỗ lực nhằm
xây dựng phát triển Đại Việt của Lê Thánh Tông đã được kiểm chứng qua các bài
chiếu, chỉ dụ do ông trực tiếp chấp bút và ban bố, như Chiếu khuyến nông, Chiếu
lập đồn điền, Chiếu định quan chế...
Đồ sứ thời Lê sơ với men lam
trang trí rồng phượng
Các
ngành nghề thủ công nghiệp và xây dựng dưới thời trị vì của Lê Thánh Tông cũng
phát triển rực rỡ. Nghề in và làm giấy ở Đại Việt đạt một trình độ cao của thế
giới thời bấy giờ. Số lượng sách in thời này khá đồ sộ. Đặc biệt nhất thời kỳ
này là thành tựu trong công nghệ chế tạo vũ khí và đồ sắt chiếm ưu thế. Đồ gốm,
sứ thời Lê sơ phát triển đạt được độ tinh xảo và hoa văn đẹp. Việc giao thương
buôn bán đã chắp cánh cho đồ gốm thời này đi xa và hiện nay bộ sư tập về đồ gốm
Lê sơ cũng rất phong phú.
Thương mại và
giao dịch buôn bán với các lân bang phát triển mạnh, cùng với bước chân viến
chinh xa xôi của đội quân đế chế Đại Việt. Để tạo thuận tiên cho việc mua bán
Lê Thánh Tông đã từng khuyến dụ các quan rằng: Trong dân gian hễ có dân là có
chợ để lưu thông hàng hoá, mở đường giao dịch cho dân. Các xã chưa có chợ có
thể lập thêm chợ mới. Những ngày họp chợ mới không được trùng hay trước ngày
họp chợ cũ để tránh tình trạng tranh giành khách hàng của nhau. Có thể dưới
thời Lê Thánh Tông các chợ được mở mang nhiều.
|
Quaân ñoäi vaø quoác phoøng
Vua lê Thánh Tông
đặt trọng tâm cùng với cuộc cải cách hành chính, nhà vua tổ chức quân đội chia thành
12 bộ phận
Quân đội bảo vệ triều đình và kinh thành gồm
2 vệ kim ngưu và cẩm y
4 vệ hiệu lực
4 vệ thần vũ
6 vệ điện tiền
4 vệ tuần tượng
4 vệ mã nhân (sau gộp vào 2
vệ cẩm y, kim ngô)
Quân địa phương gồm 5 phủ:
Trung quân lãnh các xứ Thanh
hóa, Nghệ an
Đông quân lãnh các xứ Hải
Dương, An bang
Nam quân lãnh các xứ Sơn Nam, Thuận hóa, Quảng Nam
Tây quân lãnh các xứ Tam
giang, Hưng hóa
Bắc quân lãnh các xứ kinh
bắc, Lạng sơn
Về sau vua Lê
Thánh Tông còn đặt thêm các vệ quân ở các đô ty xa như: Thanh Hóa. Nghệ An,
Thuận Hóa, Quảng Nam, An Bang, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Thái Nguyên,Lạng Sơn, Cao
Bằng.đứng đầu các phủ, vệ có chức đô đốc,đô chỉ huy, đô tổng binh, đô chỉ huy
sứ, đô tri…có 4 chủng loại là: Bộ binh, Thủy binh, Tượng binh, Kỵ binh. Vua chú
ý đến việc rèn luyện quân đội. hàng năm đều có duyệt tập ở kinh thành hoặc địa
phương.các phiên túc trực phải thường xuyên luyện tập. năm 1465vua Lê Thánh
Tông ban bố 31 điều về mã trận, 42 điều về bộ trận. đến năm 1467 nhà vua lại
quy định cứ 3 năm tổ chức một kỳ thi khảo võ nghệ của quân sĩ cùng định lệ
thưởng phạt
Về mặt quân sự,
nhà vua Lê Thánh Tông cũng đạt đến đỉnh cao của các danh nhân quân sự, ông là
nhà quân sự tài ba với tầm nhìn xa, trông rộng đi trước cả ý thức hệ quân sự
của người đương thời hàng mấy trăm năm. Ông là nhà tổ chức lão luyện , có biệt
tài tổ chức, rền luyện và sử dụng tướng sĩ, quân lính dưới quyền. trên chiến
trường ông là vị tướng có tài xoay chuyển tình thế, luôn dồn kẻ địch vào thế bị
động đối phó, bị xa sút về tinh thần để giành lấy thắng lợi trọn vẹn trong các
cuộc giao tranh, đè bẹp được ý chí xâm lược, buộc chúng phải quy hàng, kiêng nể
không giám biên giới, lãnh thổ của quốc gia Đại Việt
Trên lĩnh vực
quốc phòng và quân sự, nhà vua Lê Thánh Tông đã để lại cho các dân tộc Việt Nam
nhiều bài học sáng giá, cho đến nay vẫn còn vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi.
đối với vua Lê Thánh Tông thì về quốc phòng quân sự được đặt trọng tâm hàng đầu
song song với kinh tế. Lấy kinh tế làm nèn tảng cho việc củng cố quốc phòng và
kiện toàn quân đội, lâyys quốc phòng và quân đội bảo vệ cho việc chấn hưng kinh
tế. Vua là nhà chiến lược quân sự có tầm nhìn xa trông rộng, vượt qua ý thức hệ
về Quốc phòng và quân sự của thời đại.
Quân đội Đại Việt
dưới thời trị vì của vua Lê Thánh Tông là đội quân bách chiến, bách thắng.
Những hành động biên giới quốc gia Đại Việt đều bị giáng trả kịp thời.
Vua Leâ Thaùnh Toâng trong chính saùch beân vöïc quyeàn lôïi phuï nöõ
Có lẽ ảnh hưởng
lòng hiếu kính đối với Hoàng thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao, người mẹ có từ tâm và
luôn thể hiện những bản chất cao quý tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam, người
chịu nhiều gian truân, vào sinh ra tử. Từ những ảnh hưởng sâu sắc, từ những cái
nhìn tốt đẹp về nữ giới, do đó, vua Lê Thánh Tông đã có một chính sách bên vực
quyền lợi phụ nữ, tôn trọng phụ nữ cụ thể:
Phụ nữ Việt Nam, ngay từ thời kỳ đầu dựng nước và giữ nước vốn đã được
coi trọng, điều này không phải là không có nguyên nhân xuất xứ của nó, vì Việt
Nam vốn dĩ là một đất nước luôn bị ngoại xâm đe dọa, trong việc bảo vệ và tồn
tại của dân tộc là việc đấu tranh vệ quốc. Vai trò người phụ nữ thể hiện trong
câu nói: “Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Hình ảnh tiêu biểu của Hai Bà Trưng,
bà Lê Chân, bà Lệ Hoa, bà Triệu Thị Trinh… trong việc chống giặc ngoại xâm
giành độc lập cho nước nhà. Song việc bên vực quyền lợi phụ nữ được thực hiện
một cách táo bạo, rộng rãi, phổ biến tích cực bằng những cải cách mạnh mẽ về
pháp luật như nhà vua Lê Thánh Tông đã làm quả là một việc làm nổi bật vượt cả
ý thức hệ không những của những người đương thời nước Đại Việt mà còn vượt
cả nước thuộc ý thức hệ đế chế đương
thời ở Châu Á.
Mãi cho đến ngày
nay, ở nhiều nước trên thế giới, phụ nữ vẫn không có quyền thừa kế tài sản của
cha mẹ đẻ lại. Thế mà ở thế kỉ XV, ở Việt Nam, thời trị vì của vua Lê Thánh
Tông, phụ nữ vẫn được quyền thừa kế tài sản. Theo đó, các điều trong bộ luật
Hồng Đức, minh đinh, vợ và các con đều được hưởng quyền thừa kế tài sản, không
phân biệt con trai hay con gái tại các điều 374, 375, 376 Việc trông nom hương hỏa thường được giao cho
con trưởng. Nhưng nếu không có con trai trưởng thì giao cho con trai thứ.
Trường hợp không có con trai trưởn lẫn con trai thứ, thì giao cho con gái
trưởng trông nom ruông hương hỏa gọi là “vô nam dụng nữ” tại điều 391.
Trong bộ luật
Hồng Đức còn có điều luật mà nội dung của nó cho đến ngày nay vẫn còn làm cho
nam giới có tư tưởng “trọng nam khinh nữ” khó có thể chấp nhận được. Điều luật
đó quy định: “phàm chồng đã bỏ vợ quá 5 tháng không đi lại (vợ được trình với
quan sở tại và quan xã làm chứng) thì mất vợ. Nếu vợ đã có con thì hạn 1 năm.
Nếu vì việc quan đi xa thì không theo luật này. Nếu đã bỏ vợ mà lại đi ngăn cản
người khác lấy vợ mình bỏ thì phải tội biếm” (điều 308)
Cùng với mục đích
bên vực quyền lợi người phụ nữ, trong bộ luật Hồng Đức còn có điều quy định
“Con gái hứa gả chồng mà chưa thành hôn, nếu người con trai bị ác tật hay phạm
tội hoặc phá tán tài sản thì cho phép người con gái kêu quan mà trả lại đồ lễ.
Nếu người con gái bị ác tật hay phạm tội, thì không phải trae lại đồ lễ, nếu trái
luật thì bị phạt 80 trượng” (điều 322), hoặc “những nhà quyền thế mà ưc hiếp để
lấy con gái nhà lương dân, thì xử tội phạt biếm hay đồ” (điều 338). Xem thế,
chúng ta nhận thấy vua Lê Thánh Tông đã có cái nhìn xa, sâu sắc về người phụ
nữ, về nỗi lòng cùng những thiệt thòi mà người phụ nữ phải gánh chịu. Do đó,
phải nói trong các triều đại đế chế Việt Nam, chỉ có vua Lê Thánh Tông là nhà
vua có những cải cách táo bạo, sâu sắc đối với việc bên vực quyền lợi người phụ
nữ, khỏi những chà đạp nhân phẩm về hệ tư tưởng cục bộ lỗi thời, góp phần nâng
cao vai trò người phụ nữ trong lịch sử phát triển và đấu tranh của dân tộc Việt
Nam
Phần :Đánh giá chung
Lịch sử Việt Nam
dưới thời trị vì của vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đạt đến trình độ cực
thịnh. Bên ngoài các nước láng giềng đều kính nể Đại Việt, quan hệ hòa hảo với
các nước được thiết lập các miền biên cương, suốt dảI từ Bắc chí Nam, từ Đông
sang Tây trong nhiều năm êm ả. Toàn vẹn lãnh thổ được bảo đảm, an ninh đất nước
được duy trì, nông nghiệp trù phú, nhiều năm liền được mùa, thương nghiệp mở
mang giao lưu thông suốt
Vua Lê Thánh Tông
một con người giàu lòng nhân nghĩa, một trí tuệ lớn đã đem lại sự hưng thịnh
cho quốc gia dân tộc, những đóng góp của Ông cho đất nước thật là to lớn và
không ai có thể sánh bằng. Cuộc đời của Ông là cuộc đời của một người hoạt động
sôi nổi trên tất cả mọi lĩnh vực, mà lĩnh vực mào cũng xuất sắc, là một rất
thiết tha với chủ quyền quốc gia.
Vua Lê Thánh Tông
lên ngôi sau khi triều thần phế Lạng Sơn Vương Nghi Dân dẹp được loạn Trần
Lãng, Phạm Đồn, Phan Ban. Trước tình thế đất nước rối ren thù trong giặc ngoài
như thế, nhưng nhờ tài năng xuất chúng, trí tuệ lỗi lạc của mình, vua Lê Thánh
Tông đã mạnh dạn cách tân mọi lĩnh vực hành chính, kinh tế, chính trị, giáo
dục, thi cử và võ bị quốc phòng, nhanh chống ổn định trật tự xã hội, nâng cao
vị thế của nước Đại Việt trên trường quốc tế thời bấy giờ.
Dưới thời Lê
Thánh Tông bộ máy nhà nước Trung Ương tập quyền đạt đến mức hoàn bị, từ Trung
Ương xuống đến xã. Thế lực của đại quí tộc bị hạn chế, thay vào đó là sự tham
chính của tầng lớp sĩ phu, nho giáo được tuyển chọn bằng con đường thi cử.
Lần đầu tiên
trong lịch sử nước ta xuất hiệ bộ luật “Hông Đức” nổi tiếng mang niên hiệu vua
Lê Thánh Tông đây là một bộ luật khá là hoàn chỉnh và có nhiều tiến bộ vượt mà
cho đến ngày nay một số điều trong bộ luật vẫn còn nguyên giá trị. Điều đó cho
thấy vua Lê Thánh Tông là một con người am hiểu tình hình xã hội, từ đó đưa ra
những luật lệ phù hợp với sự phát triển của đất nước.
Vua Lê Thánh Tông
còn khuyến khích phát triển nông nghiệp, nhằm đảm bảo sự phát triển toàn diện
của đất nước về mọi mặt, mà trước tiên là đảm bảo nhu cầu lương thực, khuyến
khích nhân dân khai hoang, năm 1482 cho thành lập 43 sở đồn điền, ban hành
nhiều điều luật nhằm bảo vệ sức kéo, khuyến khích sức sản xuất nông nghiệp
Vua Lê Thánh Tông
cũng rất quan tâm đến vấn đề thi cử, và tuyển chọn quan lại theo con đường thi
cử. Vì Ông cho rằng “nhân tài là nguyên khí của quốc gia”. Ông là một con người
có tư tưởng tiến bộ so với sự phát triển
của thời đại. Chính vì thế mà đã tạo nên một Đại Việt phát triển hưng thịnh và
rực rỡ.
Bản thân nhà vua
cũng là một nhà văn hóa lớn, Người đã giải oan cho Nguyễn Trãi, trong vụ án
“Lệnh Chi Viên”, tìm con cháu Nguyễn Trải còn sống sót và ra lệnh sưu tầm thơ
văn của Nguyễn Trãi. Lê Thánh Tông còn là người rất giỏi văn chương, Ông đã
sáng tác một khối lượng lớn thơ văn bao gồm cả chữ Nôm lẫn chữ Hán.
Tóm lại, vua Lê Thánh Tông – một đấng anh quân,
một con người hiếu nghĩa và đa tài đã đưa nước Đại Việt lên địa vị cực thịnh
thế kỉ XV. Những đóng góp của Ông cho đất nước thật là to lớn và vẫn còn nguyên
giá trị cho đến ngày nay. Tài năng của Ông đã được thể hiện trên nhiều lĩnh
vực, hiếm khi trong lịch sử nước nhà lại có một vị minh quân tài giỏi và hiếu
nghĩa đến thế. Ông là một tấm gương để người đời sau luôn nhớ đến và tôn sùng
Ông về trí tuệ lẫn nhân phẩmYoung Be A sưu tầm,chỉnh sửa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nhận xét