Nói đến lịch sử Mỹ Latinh, người ta không
thể không nhắc đến người anh hùng giải phóng Simon Bolivar, người khởi xướng và
lãnh đạo thành công phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ đầu thế kỷ 19. Dưới chân
ngọn núi cao nhất của Venezuela ngày nay có một tấm biển ghi dòng chữ:
"Người Giải phóng, đỉnh núi cao nhất của dãy Andez vẫn còn nhỏ bé so với
chiến công của Người".
chân dung Simon Bolivar |
Simón Bolívar sinh ngày 24 tháng 7 năm 1783
tại Caracas, Venezuela trong một gia đình quý tộc có nguồn gốc từ xứ Basque,
Tây Ban Nha. Cha ông, đại tá Juan Vicente Bolívar y Ponte có dòng máu xa của
vua xứ Castile Fernando III và bá tước vùng Savoy Amedeo IV, mẹ là bà María de
la Concepción Palacios Blanco Simón. Dòng họ Bolivar định cư ở Venezuela từ thế
kỷ XVI và việc sở hữu những mỏ vàng, mỏ đồng bên sông Aroa đã góp phần làm họ
trở nên giàu có. Sau này, trong cuộc đời cách mạng của mình, Simón Bolívar đã
dùng một phần thu nhập từ những mỏ vàng và đồng để tài trợ cho Những cuộc chiến
tranh cách mạng Nam Mỹ. Bolívar mồ côi cha năm 3 tuổi (1786), mẹ ông vừa cai quản
gia đình vừa đảm nhiệm việc giáo dục các con nhỏ. Năm 1792, khi Bolívar 9 tuổi,
mẹ cũng mất, ông và người em trai được ông ngoại nuôi và dạy học. Sau khi ông
ngoại mất, anh em Bolívar ở với chú, năm 12 tuổi, ông trốn đến nương nhờ nhà vợ
chồng người chị María Antonia.
Trong thời gian ở nhà người chị, ông được
Simón Rodríguez (1769 - 1854), một hiệu trưởng trường tiểu học ở Caracas dạy dỗ.
Giữa ông và người thầy nhân hậu đồng thời cũng là nhà nghiên cứu khoa học nhân
văn, nhà cải cách xã hội này đã nảy sinh một mối quan hệ tốt đẹp và tồn tại suốt
cuộc đời Bolívar vì ngoài kiến thức, giữa họ còn có sự đồng cảm sâu sắc. Sau
đó, ông cũng đã từng theo học Andrés Bello (1781 - 1865), nhà nghiên cứu khoa học
nhân văn, nhà lập pháp, nhà triết học, nhà giáo dục người Venezuela. Hai ông thầy
nổi tiếng này đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Simón Bolívar. Năm 14 tuổi, ông gia nhập
tiểu đoàn du kích ở thung lũng Aragua, nơi gia đình ông có nhiều tài sản và cha
ông đã từng làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn này. Trong vòng một năm, ông được
phong quân hàm thiếu uý và vừa luyện tập quân sự vừa học các môn cơ bản thời bấy
giờ như toán học, vật lý, đồ bản,... tại trường học của dòng họ do một cha cố
dòng tu Francis dạy.
Năm 1799, Bolívar sang Madrid, Tây Ban Nha,
ông miệt mài nghiên cứu lịch sử, văn học cổ điển và đương đại, toán học rồi bắt
đầu học tập bằng tiếng Pháp. Ngoài ra ông còn học khiêu vũ và hùng biện.
Bolívar nhanh chóng tiến bộ trong tất cả các môn học và qua các buổi khiêu vũ,
ông làm giàu ngoại ngữ đồng thời trở nên tinh tế, tự tin trong giao tiếp. Ngày
26 tháng 5 năm 1802, Bolívar kết hôn với bà María Teresa Rodríguez del Toro y
Alaysa rồi cả hai trở về Venezuela. Nhưng không lâu sau đó, tháng 1 năm 1803,
María Teresa chết do nhiễm bệnh sốt vàng da. Cuối năm 1803, ông trở lại châu
Âu, đi lại giữa Cadiz và Madrid rồi sang
Paris năm 1804.Năm 1807 , sau nhiều năm sống và học tập ở châu Âu , Bolivar trở
về quê hương để dấn thân vào cuộc đấu tranh chống lại thực dân Tây Ban Nha.
II. Hoạt động cách mạng và đóng góp của Símon Bolivar trong
sự nghiệp giải phóng Nam Mỹ.
II.1 Quá trình hoạt động
cách mạng của Bolivar.
II.1.1 Thời kì ở Vênezuela.
Đã
từng hai lần đến và sống ở châu Âu, Bôlivar chịu ảnh hưởng những tư tưởng tiến
bộ của thời đại mới ở nơi đây, ông luôn nung nấu một ý tưởng là mọi người phải
được tự do và bình đẳng, mong ước giải phóng đất nước Venezuala khỏi ách thống
trị của thực đân Tây Ban Nha nên ngay khi về nước vào năm 1807, ông đẫ lập tức
đấn thân vào cuộc đấu tranh để giải phóng dân tộc. Ở quê nhà, ông cùng với em trai và những người bạn gần gũi
suy tính, bàn bạc về quá trình giành độc lập cho Venezuala. Lúc này Joseph Bonapart được Napoleon
lập làm vua Tây Ban Nha và những thuộc địa.
Năm 1808, Bolívar tham gia "quân đội kháng chiến" ở Nam Mỹ. Đầu năm 1810, ông phát động một cuộc khởi nghĩa trong tầng
lớp dân chung ở Thành phố Caracas và
giành được thắng lợi. Ngày 19-4-1810, quân đội kháng chiến Caracas tuyên bố độc lập,
chính phủ quân sự cử Bolívar đi làm đại diện tại Anh, cùng đi có Luis López
Méndez và Andrés Bello. Đây là chuyến sang châu Âu lần thứ ba của ông với mục đích tìm kiếm sự viện trợ của nước Anh
nhưng chính phủ Anh chỉ hứa giữ thái độ trung lập. Ông trở về nước cuối
năm 1810. Trở lại vị trí của mình trong Hội những người yêu nước Caracas
Bolívar, trở thành một trong những diễn giả nhiệt tình nhất cho độc lập.
Tháng 7 năm 1811,Venezuala tuyên bố
trở thành nước Cộng Hòa (sử sách gọi là nền Cộng hòa thứ I). Bolívar gia nhập
quân đội, được phong quân hàm đại tá và tham gia cuộc đột kích Valencia
theo lệnh của Miranda năm 1811.
Năm 1812,ông thất thủ trong trận
đánh tại TP Puerto Cabello do có nội phản. Tháng 7 năm 1812, tướng Miranda
đầu hàng người Tây Ban Nha. Nến
Cộng hòa thứ nhất sụp đổ. Ở thành phố cảng La Guaira. Một nhóm sỹ quan trong đó
có Bolívar định bắt giữ Miranda nhưng không thành công. Ông quyết định tự cứu lấy
bản thân mình và với sự giúp đỡ của một người bạn, ông có được hộ chiếu để đến Curazao
rồi Cartagena de Indias. Ở Cartagena de Indias ông đã viết “Tuyên
ngôn Cartagena”, một trong những tác phẩm quan trọng nhất của mình. Trong
tác phẩm ông đã rút ra những bài học về sự thất bại của nền Cộng hòa thứ nhất ở
Venezuala và vạch ra chiến lược từ Côlômbia đánh về Venezuala để lập lại nền
Cộng hòa tại đây. Thông qua đó, những lý
tưởng chính trị đã được định hình và là kim chỉ nam cho những hành động của
Bolívar sau này.
Ông đã nhiều lần chỉ huy đội
quân ái quốc Cartagena đánh bại các cuộc phản kích của đội quân thực dân, vượt
dãy Andixơ giải phóng TP biên giới Cuncuta. Ngày 14-5-1813, dẫn đầu một đội
quân nhỏ hơn 1000 người, Bolívar vượt sông Magdalena và bắt đầu chiến dịch
giải phóng Venezuela.
Ngày 23-5-1813, Bolívar tiến vào thành phố Méridahttp://vi.wikipedia.org/wiki/Sim%C3%B3n_Bol%C3%ADvar
- cite_note-9 và nhân dân ở đây là những người đầu tiên gọi ông là Người Giải phóng, ngày 9 tháng 6, Bolívar chiếm thành phố Trujillo.
Ngày 15-6-1813, ông đọc bản mệnh lệnh nổi tiếng "Chiến tranh cho đến chết".
Bằng một loạt những trận đánh thông minh, sau 3 tháng, quân đội của Bolívar đã
tiến vào Caracas ngày 6-8-1813. Chiến
dịch đó sau này được gọi là "Chiến dịch thần diệu".
Tháng 10-1813, trong một buổi lễ
long trọng, chính quyền và nhân dân Caracas
đã chính thức tặng cho ông danh hiệu đã đi vào lịch sử "Người Giải phóng".
Sau khi tiến vào Caracas, Bolívar
tuyên bố thành lập nền Cộng hoà Venezuela thứ hai.
Ông được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh đội quân ái quốc. Tuy nhiên, vào năm
1814, tên đầu xỏ thực dân Hôxê
Tômatô Boneixry đã lợi dụng mâu thuẫn giữa những người làm nghề chăn
nuôi trên thảo nguyên với bọn địa chủ da trắng để tổ chức thành một đội
quân bảo
hoàng. Bolívar tiếp tục tiến hành nhiều trận đánh và mặc dù giành được những
thắng lợi quan trọng, ông và tướng Santiago Mariño (người đã giải phóng
miền đông Venezuela) chịu thất bại trước đội quân đông đảo hơn gấp nhiều lần của
tướng bảo hoàng José Tomás Boves trận đánh La Puerta (tháng 6 năm
1814), nền Cộng hoà thứ hai sụp đổ, những người đòi độc lập buộc phải sơ tán
hàng loạt khỏi Caracas về phía đông.
Cảm thấy quyền lực của mình và
tướng Mariño bị thách thức bởi chính những người đồng hành, ông sang Nueva
Granada. Tại đây, Bolívar chỉ huy Quân đội quốc gia Colombia tiến
vào Bogotá năm 1814 và sau đó dự định đến Cartagena để tìm kiếm sự ủng hộ
của người dân địa phương nhằm chiếm thành phố Santa Marta. Tuy nhiên sau
những xung đột quân sự và chính trị với chính quyền thành phố Cartagena,
tháng 5 năm 1815, Bolívar từ bỏ binh quyền để tránh một cuộc nội chiến.
Sau khi lánh sang Jamaica, từ
tháng 5 đến tháng 12 năm 1815, Bolívar kiên nhẫn chờ đợi thời cơ để tiến hành
những cuộc chiến đấu mới. Chính vì thế, ông nghiền ngẫm về số phận của Mỹ Latinh
và tháng 9 năm ấy viết “Bức thư Jamaica” nổi tiếng. Trong
đó, với nhận thức sâu sắc, ông đánh giá quá khứ- hiện tại và tương lai của lục
địa này . Bức thư có thể xem là một bản
cương lĩnh mạnh mẽ về con dường giành độc lập cho các nước Mi latinh và
một mô hình chính trị tương lai: mô hình nhsf nước dân chủ- phân quyền theo các
nước phương Tây.
Sự thất bại của Napoleon ở châu
Âu và một đội quân Tây Ban Nha hùng mạnh do tướng Pablo Morillo dẫn đầu
kéo đến Venezuela đã hâm nóng nhiệt tình của phe bảo hoàng.
Bolívar, sau khi thoát khỏi một
âm mưu ám sát đã đến Haiti nhằm tìm kiếm nguồn tài chính để
tiếp tục cuộc chiến đấu, tổng thống Haiti, Alejandro Petion đã cho ông
vay tiền. Đội quân viễn chinh do Bolívar dẫn đầu đến đảo Margarita năm 1816
và nhanh chóng đổ bộ vào lục địa. Sau khi tấn công chiếm được Carúpano,
ngày 2 tháng 6 năm 1816, Bolívar ra sắc lệnh
giải phóng nô lệ.
Trong khi đội quân đang tiến về Ocumare
de la Costa, thì Bolívar bất ngờ bị tách khỏi bộ phận chủ yếu của quân đội
và buộc phải trở lại Haiti. Ông tổ chức một đội quân thứ hai tiến về đến đảo Margarita
cuối năm 1816. Đầu năm 1817, Bolívar dự định chiếm vùng Guayana để làm
bàn đạp giải phóng hoàn toàn Venezuela và đến tháng 7 năm 1817, ông chiếm được
thủ phủ Angostura (ngày nay là Ciudad Bolívar) của vùng này. Bolívar
thành lập một nhà nước mới, lập ra bộ máy chính quyền và cho xuất bản một tờ báo.
Cuộc chiến đấu của ông không những
diễn ra đối với quân Tây Ban Nha mà còn đối với những mầm mống vô chính phủ
trong vùng. Tháng 10 năm 1817, sau một cuộc diễn tập, tướng Manuel Piar,
một trong những lãnh đạo của những người cộng hòa bị xử bắn ở Angostura. Trong thời gian này, Bolívar
ra sắc lệnh về Luật phân phối của cải
quốc gia.
Năm 1818, ông bất ngờ đột kích quân đội bảo hoàng của tướng Morillo ở
thành phố Calabozo nhưng quân đội
Cộng hòa bị đánh bại, Bolívar suýt nữa bị quân đội bảo hoàng giết chết. Ông trở
về Angostura ngày 5 tháng 6 năm 1818 và lúc đó, đại diện ngoại giao của Mỹ
cùng với một đội quân của những người châu Âu tình nguyện đã tới đây. Bolívar
triệu tập Nghị viện Venezuela đệ nhị ở Angostura ngày 15 tháng 2năm
1819 và đọc một bài diễn văn có vai trò quan trọng trong tư tưởng chính trị của
ông đồng thời đệ trình dự thảo Hiến
pháp. Đồng thời, ông cũng tuyên
bố về sự thành lập của nền cộng hòa thứ
ba ở Venezuala, Bôlivar đã được bầu làm tổng thống.
II.1.2 Sáng lập Đại Colombia
Năm 1819, Bolívar mở chiến dịch
giải phóng Nueva Granada. Quân đội của ông vượt qua dãy Andes, sau những
trận đánh ác liệt tại Gameza ngày 12 tháng 7 năm 1819 và Pantano de
Vargas ngày 25 tháng 7 năm 1819, Bolívar đã giành chiến thắng quyết định trong trận Boyacá ngày 7 tháng 8năm 1819. Tháng
10-1819, ông tiến vào Bogotá và trao quyền chỉ huy ở Nueva Granada cho
tướng Francisco de Paula Santander, Bolívar trở về Angostura. Ở
đó, theo đề nghị của ông, tháng 12 năm 1819, Nghị viện đã ban hành Hiến pháp
Cộng hoà Colombia. Đất nước vĩ đại do Bolívar sáng lập này gồm các nước cộng
hoà Venezuela, Colombia, Ecuador và Panamá.
Quân đội cộng hoà đã giành được ưu thế ở mọi nơi: Cartagena bị
vây hãm, Mérida và Trujillo được giải phóng. Sau cuộc Cách mạng
giải phóng nổ ra ở Tây Ban Nha tháng 1 năm 1820, chính phủ mới của Tây Ban
Nha cố gắng đạt được một hiệp định hoà bình và ở Trujillo, tháng 11 năm 1820
hai bên đã ký kết một thoả thuận ngừng bắn cùng với bản điều ước về chiến
tranh. Sau khi thoả thuận ngừng bắn hết hiệu lực, quân đội cộng hoà bắt đầu
hành quân hướng về Caracas.
Ngày 24 tháng 6 năm 1821, trên
bình nguyên Carabobo, Bolívar đã
giành thắng lợi trong một trận đánh đánh dấu sự khai sinh ra nền độc lập của Venezuela.
Tàn quân của quân đội bảo hoàng lẩn trốn tại Puerto Cabello và cuối cùng tan rã
năm 1823. Ngày 29 tháng 6 năm 1821, Bolivar - Người Giải phóng tiến vào
thành phố quê hương trong sự chào đón hân hoan của nhân dân.
II.1.3 Giải phóng Ecuador.
Cùng với việc giải phóng Venezuala, ông cùng đội quân ái quốc còn tiến về giải phóng Êcuador, nơi vẫn còn nằm dưới sự thống trị của người Tây Ban Nha. Ông tiến qua Maracaibo, Cúcuta rồi tiến đến Bogotá.
Năm 1822, hai cánh quân, mũi
phía bắc do Bolívar chỉ huy, mũi phía nam xuất phát từ Guayaquil do tướng
Antonio José de Sucre chỉ huy bắt đầu tấn công giải phóng Quito.
Sau chiến thắng của tướng Sucre
của trong trận Pichincha ngày 24 tháng 5 năm 1822, Ecuadro được giải
phóng và hợp nhất vào Cộng hoà Đại Colombia. Đến thời điểm này thì đại
Colombia đã được giải phóng và được Mĩ công nhận. Như vậy, ngoài Pêru thì lục đại
Nam Mĩ về co bản đã được giải phóng.
II.1.4 Giải phóng hoàn toàn Peru.
Ngày 25 tháng 7 năm 1822, "Người bảo hộ Perú", tướng José de San Martín từ Peru tới Guayaquil. Trong hai ngày 26 và 27, Bolivar đã có ba cuộc hội đàm bí mật với Martin nhưng giữa họ có có chính kiến khác nhau về nhiều vấn đề như: Guayaquil sẽ thuộc về ai, việc bố trí chính thể Pêrru sau cách mạng như thế nào…. Vì vậy, San Martin đã lẳng lặng lên tàu trở về Achentina. Bolívar lĩnh lấy sứ mạng giải phóng hoàn toàn Peru.
Ngày 7 tháng 8 năm 1823, Bolívar rời Guayaquil đến Callao vào đầu tháng 9 năm đó. Trong tình trạng vô chính phủ, Bolívar đã tổ chức lại quân đội với nòng cốt là những tiểu đoàn của ông.
Khi Lima rơi vào tay quân bảo hoàng và ngày 10 tháng 2 năm 1824, Nghị viện Peru đã phong Bolívar là Tổng tài với quyền lực tuyệt đối trước khi tự giải tán. Bolívar rút về Trujillo để củng cố và chuyển sang tấn công.
Ngày tháng 8 năm 1824 ông đã đánh bại quân đội nhà vua tại Junín Chiến dịch tiếp tục phát triển và trong khi Bolívar tiến vào Lima, vây hãm Callao thì tướng Sucre đã tiêu diệt nốt quân đội nhà vua tại Ayacucho ngày 9 tháng 12 năm 1824. Đến đây chiến tranh giành độc lập kết thúc, ngày 10 tháng 2 năm 1825, tại Nghị viện Perú ở Lima, Bolívar tuyên bố từ bỏ quyền lực tuyệt đối đã được trao cho ông để tiến hành chiến tranh giành độc lập.
Hai ngày sau, Nghị viện Peru đã tuyên bố vinh danh và tặng thưởng cho ông cùng quân đội nhưng ông từ chối tiền thưởng. Bolívar rời thu đô Lima đến Arequipa, El Cuzco và những tỉnh thuộc Thượng Peru (Alto Perú) để quét sạch tàn dư của thực dân Tây Ban Nha. Tháng 8-1825, thượng Peru thành lập nước Cộng hoà Bolívar tức Bolivia ngày nay để tỏ lòng tôn kính đối với ông.
Ngày 22-1-1816, liên quân ái quốc đánh chiếm TP Canlau- cứ điểm cuối cùng của thế lực thực dân Tây Ban Nha. Sự nghiệp vĩ đại do Colombia lành đạo đã giành tháng lợi hoàn toàn.
II.1.5 Sự phân hóa Đại Colombia.
Từ năm 1826 đến hết cuộc đời là khoảng thời gian Bolivar giành nhiều tâm huyết cho việc tạo lập ra một chính thể thống nhất giữa các quốc gia ở Nam Mĩ mà cụ thể là duy trì và phát triển đại Colombia- đất nước do ông sáng lập.
Năm 1826, một cuộc nổi dậy gọi là
La Cosiata do tướng José Antonio Páez lãnh đạo đã nổ ra để chống
lại chính quyền trung ương ở Bogotá.
Tháng 4 năm 1826, Bolívar trở về Caracas
và cố gắng vãn hồi hoà bình. Tuy nhiên những lực lượng ly khai tỏ ra thắng thế
trước xu hướng hợp nhất.
Ngày 5 tháng 7 năm 1827, ông rời Caracas đáp tàu đi La Guaira rồi tới
Bogotá Ngày 10 tháng 9 năm 1827, ông tuyên thệ nhậm chức tổng thống Cộng hoà
Đại Colombia.
Hội nghị lập pháp họp ở Ocaña
tháng 4 năm 1828 đã giải tán mà không đạt được thoả thuận nào giữa những phe đối
lập. Bolívar xưng là Tổng tài ngày 27 tháng 8 năm 1828. Ngày 25 tháng 9 năm 1828,
ông thoát chết sau một vụ ám sát ở Bogotá với sự giúp đỡ của Manuela Saenz.
Không lâu sau, ông buộc phải tiến hành một chiến dịch chống lại những đội quân
của Perú đang đe dọa Ecuador. Bất chấp thể trạng ốm yếu, bệnh tật, ông vẫn kiên
trì bảo vệ những thành quả của mình.
Năm 1830, ông trở về Bogotá để thiết lập Hội đồng Hiến pháp nhưng
Venezuela một lần nữa công khai đòi trở thành một quốc gia độc lập. Tại Nueva
Granada, sự chống đối cũng dần trở nên mạnh mẽ hơn. Bolívar đã suy sụp sức
khỏe, ông từ bỏ chức vụ tổng thống . Đại Colombia tan rã. Qúa trình hoạt động
cách mạng của Bolivar cũng chấm dứt tại đây.
II.2. Vai trò của Bolivar đối với khu vực Nam Mĩ.
Thứ nhất, đối với đất nước Venezala, ông la lãnh tụ kiệt xuất mang
lại nền độc lập cho tổ quốc mình. Ngay sau khi đặt chân về nước, ông đã suy
tính, bàn bạc và mưu cuộc giải phóng dân tộc. Bằng tài năng của mình, ông đã
khôi phục lại nền Cộng hòa của Minranda,
sáng lập nền cộng hòa thứ hai và thứ ba. Năm 1821, sau một thời gian chuẩn
bị kĩ lưỡng, Bolivar dẫn quân trở về Venezuala và giành thắng lợi quyết định trong
chiến dịch Karabobo, đánh dấu sự khai sinh ra nền độc lập của Venezuala.
Bolivar trở thành vị anh hùng giải phóng dân tộc.
Thứ hai, trong quá trình hoạt động cách mạng, Bolivar đã tham gia
472 trận đánh lớn nhỏ, ông từ “người giải
phóng” của dân tộc Venezuala đã trở thành “người giải” phóng cho các dân tộc
khác ở khu vực Mĩ Latinh. Tổng kết từ bài học lịch sử. Bolivar nhận thức được rằng
vận mệnh Tổ quốc gắn liền với độc lập của khu vực Mĩ Latinh. Để bảo vệ thành quả
cách mạng, ông đã dẫn quân từ Venezuala chinh chiến ở miền Bắc Mĩ latinh, đánh
đuổi đội quân thực dân và giải phóng các vùng đất ở đó. Sau đó, ông lại đề nghị
dẫn quân nam tiến để tấn công tàn dư của thực dân ở đó. Trãi qua nhiều năm chiến
đấu gian khổ, bọn tàn quân thực dân Tây Ban Nha cuối cùng đẫ đầu hàng vào năm
1826. Cuộc chiến tranh giành độc lập đấy song gió của Mĩ latinh kết thúc thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc chiến tranh giành độc lập do ông lãnh đạo đã khiến cho hàng
loạt các Mĩ latinh giành được cuộc sống mới, đứng vào hàng ngũ các dân tộc độc
lập trên thế giới, đó là: Colombia, Ecuador, Peru, Bolivia. Ngoài sự lãnh đạo về
mặt quân sự, ông còn là nhà lãnh đạo về mặt tư tưởng cho phong trào - viết báo,
ra báo, phát biểu, viết các bức thư. Ông không mệt mỏi gây các quĩ ủng hộ cho
cuộc đấu tranh., góp phần rất lớn vào vào sự thắng lợi của cách mạng.
Thứ ba, ông là người đa đem tư tưởng tự do, bình đẳng đến khu vực
này. Điều đó đã được chứng minh bằng các hành động thiết thực , những chủ
trương cải cách tiến bộ như: tuyên bố xóa bỏ chế độ nô lệ đối với người da đen,
thủ tiêu chế độ cống nạp đối với người Indian, hoàn thành dự luật về tịch thu
ruộng đất cảu bọn địa chủ nhằm đem lại quyền lợi cho nhân dân…. Quan trọng nhất
là với tài năng chính trị kiệt xuất của
mình, ông là người đặt nền móng cho chế độ cộng hòa tại khu vực Nam Mĩ – một thể
chế dân chủ, tiến bộ của thời đại lúc bấy
giờ.
Thứ
tư, ngoài tư tưởng công bằng, tự do và bình đẳng ở trên,, Bolívar đã để lại
cho các dân tộc Mỹ Latinh tư tưởng Liên Mỹ mà đến nay vẫn thường được nhắc tới.
Đó là hòa bình trên cơ sở một khối liên kết thống nhất các nước châu Mỹ. Một
"Thế giới mới sẽ gồm các quốc gia độc lập gắn chặt với nhau bởi luật pháp
chung... Mọi rào cản về xuất xứ, chủng tộc và màu da sẽ biến mất. Trong các thế
kỷ tiếp theo, có thể tiến tới một chính phủ hợp nhất toàn thế giới như một liên
bang". Ông dành nhiều nhiệt huyết của mình cho việc củng cố và phát triển
đất nước đại Colombia- một cụ thể về tư tưởng liên minh các nước Nam Mĩ trong một chính thể thống nhất của ông. Do
khuynh hướng chia tách ở Nam Mĩ lớn hơn nhiều so với các thuộc địa ở Bắc Mĩ, vì
thế đại Colombia đã dần tan rã khi Venezuala và Ecuador tuyên bố rút khỏi đại
Colombia vào năm 1830. Tuy thất bại nhưng những tư tưởng Liên Mĩ do ông để lại
chính là cơ sở, là nguồn cảm hứng cho việc thành lạp một liên minh giữa các nước
ở khu vực Nam mĩ hiện nay, bằng chứng đó la sự ra đời và tồn tại của “Liên minh
Bolivar vì châu Mĩ” viết tắt là ALBA hiện
nay.
Có một điều thú vị khi tìm hiểu
về vai trò của Bolivar đối với phong trào cách mạng Mĩ latinh là ông có rất nhiều điểm giống với
Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ kinh yêu của dân tộc ta. Hai con người ấy, mỗi
người một khu vực khác nhau, Bolivar ở Nam Mĩ, còn Hồ Chí Minh ở Đông Nam Á, trong
các thời đại khác nhau, nhưng đều được tôn vinh là các lãnh tụ giải phóng của
dân tộc mình. Về phương diện tri thức, họ đều được đào tạo từ việc học tập ở
các nhà bách khoa và các nhà kinh điển, từ nghệ thuật chiến tranh cho đến những
luận đề triết học, tất cả đều giúp cho họ vốn thông tin cơ bản trong lĩnh vực
xã hội học chính trị. Những kiến thức ấy cùng với năng lực uyên bác bẩm sinh và
lòng yêu nước đã làm cho sự nhạy cảm của họ hướng về sự toàn tâm, toàn ý cho mục
đích duy nhất là cứu vãn dân tộc mình khỏi sự áp bức của các thế lực bạo tàn.
Simon Bolivar đã chiến đấu hết mình để chống chế độ thực dân Tây Ban Nha, một
chế độ đã gây ra bao tổn hại đối với Mỹ Latinh bằng sự cướp bóc và sự tàn bạo
chỉ có thể có ở những con người phi nhân tính. Còn Hồ Chí Minh thì đấu tranh chống
lại chế độ thực dân Pháp, chế độ đã cướp đoạt của cải, tài nguyên trên lãnh thổ
Việt Nam trong gần một trăm năm. Bolivar và Hồ Chí Minh rõ ràng là hai nhà cách
mạng mẫu mực. Hai vị lãnh tụ đã từng vượt qua hàng nghìn, hàng vạn dặm đường
trong quá trình cách mạng, đã viết rất nhiều trang sách để truyền bá tư tưởng
chính trị của mình cho tới khi đạt được mục tiêu giải phóng đất nước. Bolivar
và Hồ Chí Minh xứng đáng với sự tôn vinh và lòng ngưỡng mộ của các dân tộc, là
hiện thân của những gì tinh túy nhất trong chủ nghĩa nhân đạo cải tạo thế giới
mà lý do tồn tại của nó dựa trên những giá trị hình thành quyền con người phổ
quát trên thế giới này.
III. Kết luận.
Sau khi đại Colombia tan rã, Ngày 10 tháng 12, ông đã viết một bản tuyên bố gửi nhân dân, đây được coi là di chúc chính trị của Người Giải phóng. Ông dự định sang châu Âu nhưng đột ngột ra đi ngày 17 tháng 12 năm 1830 tại San Pedro Alejandrino, một khu biệt thự ở Santa Marta vì bệnh lao. Đến năm 1942 trong một nghi thức hết sức trang trọng, thi hài ông được chuyển về Venezuela và đặt tại National Pantheon, Caracas. Tuy nhiên, hiện nay Chính phủ Vênêxuêla đã công bố những phát hiện mới về cái chết của Nhà giải phóng châu Mỹ Simon Bolivar. Theo đó nguyên nhân trực tiếp khiến ông qua đời không phải do bệnh lao như giả thuyết chính thức trong lịch sử mà do bị hãm hại hay chỉ là vô tình nhiễm một hàm lượng nhỏ ácsen ảnh hưởng đến cơ thể và dẫn đến tử vong.
Ông đã ra
đi vĩnh viễn nhưng những công lao, đóng góp của ông đối với các quốc gia Nam Mỹ
nói riêng và thế giới nói chung vẫn luôn trường tồn, mãi mãi là một anh hùng dân tộc đáng kính.
Bolívar đã
giữ một vai trò lớn lao trong lịch sử của cả một lục địa, là nhân vật chính yếu
trong cuộc đấu tranh giải phóng của châu Mỹ La tinh khỏi ách thực dân. Ông đã
có sự lãnh đạo về mặt tư tưởng cho phong trào - viết báo, ra báo, phát biểu, viết
các bức thư. Ông hông mệt mỏi gây các quĩ ủng hộ cho cuộc đấu tranh. Và ông là
người lãnh đạo quân sự chính của quân cách mạng
Simón Bolívar là nhân vật chính trị giữ một
vai trò lớn lao trong lịch sử của cả một lục địa. Là một
nhà lãnh đạo xuất sắc , một người có lý tưởng và hoài bão lớn lao , trải qua
nhiều gian lao vất vả cuối cùng Bolivar đã lãnh đạo nhân dân Nam Mỹ đánh đuổi
được thực dân Tây Ban Nha , giành độc lập và tự do cho miền đất này, xứng đáng
với danh hiệu “ Người giải phóng “ . Ghi nhận công lao vĩ đại đó, tên tuổi và
hình ảnh của ông đã hiện hữu nhiều nơi, từ tranh, tượng, sách vở cho đến những
con tem bưu chính không chỉ của các quốc gia Nam Mỹ mà của nhiều quốc gia khác
trên thế giới. Thậm chí, UNESCO còn lập ra giải thưởng Simon Bolivar, trao tặng
hai năm một lần cho những người có đống góp quan trọng trong việc thực hiện lí
tưởng của ông. Ông là một trong 100 nhân
vật có ảnh hưởng nhất đên thế giới thế kỉ XX.
Nói đến lịch sử Mỹ Latinh, người ta không
thể không nhắc đến người anh hùng giải phóng Simon Bolivar, người khởi xướng và
lãnh đạo thành công phong trào giành độc lập ở Nam Mỹ đầu thế kỷ 19. Dưới chân
ngọn núi cao nhất của Venezuela ngày nay có một tấm biển ghi dòng chữ:
"Người Giải phóng, đỉnh núi cao nhất của dãy Andez vẫn còn nhỏ bé so với
chiến công của Người".
Simón Bolívar sinh ngày 24 tháng 7 năm 1783
tại Caracas, Venezuela trong một gia đình quý tộc có nguồn gốc từ xứ Basque,
Tây Ban Nha. Cha ông, đại tá Juan Vicente Bolívar y Ponte có dòng máu xa của
vua xứ Castile Fernando III và bá tước vùng Savoy Amedeo IV, mẹ là bà María de
la Concepción Palacios Blanco Simón. Dòng họ Bolivar định cư ở Venezuela từ thế
kỷ XVI và việc sở hữu những mỏ vàng, mỏ đồng bên sông Aroa đã góp phần làm họ
trở nên giàu có. Sau này, trong cuộc đời cách mạng của mình, Simón Bolívar đã
dùng một phần thu nhập từ những mỏ vàng và đồng để tài trợ cho Những cuộc chiến
tranh cách mạng Nam Mỹ. Bolívar mồ côi cha năm 3 tuổi (1786), mẹ ông vừa cai quản
gia đình vừa đảm nhiệm việc giáo dục các con nhỏ. Năm 1792, khi Bolívar 9 tuổi,
mẹ cũng mất, ông và người em trai được ông ngoại nuôi và dạy học. Sau khi ông
ngoại mất, anh em Bolívar ở với chú, năm 12 tuổi, ông trốn đến nương nhờ nhà vợ
chồng người chị María Antonia.
Trong thời gian ở nhà người chị, ông được
Simón Rodríguez (1769 - 1854), một hiệu trưởng trường tiểu học ở Caracas dạy dỗ.
Giữa ông và người thầy nhân hậu đồng thời cũng là nhà nghiên cứu khoa học nhân
văn, nhà cải cách xã hội này đã nảy sinh một mối quan hệ tốt đẹp và tồn tại suốt
cuộc đời Bolívar vì ngoài kiến thức, giữa họ còn có sự đồng cảm sâu sắc. Sau
đó, ông cũng đã từng theo học Andrés Bello (1781 - 1865), nhà nghiên cứu khoa học
nhân văn, nhà lập pháp, nhà triết học, nhà giáo dục người Venezuela. Hai ông thầy
nổi tiếng này đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Simón Bolívar. Năm 14 tuổi, ông gia nhập
tiểu đoàn du kích ở thung lũng Aragua, nơi gia đình ông có nhiều tài sản và cha
ông đã từng làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn này. Trong vòng một năm, ông được
phong quân hàm thiếu uý và vừa luyện tập quân sự vừa học các môn cơ bản thời bấy
giờ như toán học, vật lý, đồ bản,... tại trường học của dòng họ do một cha cố
dòng tu Francis dạy.
Năm 1799, Bolívar sang Madrid, Tây Ban Nha,
ông miệt mài nghiên cứu lịch sử, văn học cổ điển và đương đại, toán học rồi bắt
đầu học tập bằng tiếng Pháp. Ngoài ra ông còn học khiêu vũ và hùng biện.
Bolívar nhanh chóng tiến bộ trong tất cả các môn học và qua các buổi khiêu vũ,
ông làm giàu ngoại ngữ đồng thời trở nên tinh tế, tự tin trong giao tiếp. Ngày
26 tháng 5 năm 1802, Bolívar kết hôn với bà María Teresa Rodríguez del Toro y
Alaysa rồi cả hai trở về Venezuela. Nhưng không lâu sau đó, tháng 1 năm 1803,
María Teresa chết do nhiễm bệnh sốt vàng da. Cuối năm 1803, ông trở lại châu
Âu, đi lại giữa Cadiz và Madrid rồi sang
Paris năm 1804.Năm 1807 , sau nhiều năm sống và học tập ở châu Âu , Bolivar trở
về quê hương để dấn thân vào cuộc đấu tranh chống lại thực dân Tây Ban Nha.
II. Hoạt động cách mạng và đóng góp của Símon Bolivar trong
sự nghiệp giải phóng Nam Mỹ.
II.1 Quá trình hoạt động
cách mạng của Bolivar.
II.1.1 Thời kì ở Vênezuela.
Đã
từng hai lần đến và sống ở châu Âu, Bôlivar chịu ảnh hưởng những tư tưởng tiến
bộ của thời đại mới ở nơi đây, ông luôn nung nấu một ý tưởng là mọi người phải
được tự do và bình đẳng, mong ước giải phóng đất nước Venezuala khỏi ách thống
trị của thực đân Tây Ban Nha nên ngay khi về nước vào năm 1807, ông đẫ lập tức
đấn thân vào cuộc đấu tranh để giải phóng dân tộc. Ở quê nhà, ông cùng với em trai và những người bạn gần gũi
suy tính, bàn bạc về quá trình giành độc lập cho Venezuala. Lúc này Joseph Bonapart được Napoleon
lập làm vua Tây Ban Nha và những thuộc địa.
Năm 1808, Bolívar tham gia "quân đội kháng chiến" ở Nam Mỹ. Đầu năm 1810, ông phát động một cuộc khởi nghĩa trong tầng
lớp dân chung ở Thành phố Caracas và
giành được thắng lợi. Ngày 19-4-1810, quân đội kháng chiến Caracas tuyên bố độc lập,
chính phủ quân sự cử Bolívar đi làm đại diện tại Anh, cùng đi có Luis López
Méndez và Andrés Bello. Đây là chuyến sang châu Âu lần thứ ba của ông với mục đích tìm kiếm sự viện trợ của nước Anh
nhưng chính phủ Anh chỉ hứa giữ thái độ trung lập. Ông trở về nước cuối
năm 1810. Trở lại vị trí của mình trong Hội những người yêu nước Caracas
Bolívar, trở thành một trong những diễn giả nhiệt tình nhất cho độc lập.
Tháng 7 năm 1811,Venezuala tuyên bố
trở thành nước Cộng Hòa (sử sách gọi là nền Cộng hòa thứ I). Bolívar gia nhập
quân đội, được phong quân hàm đại tá và tham gia cuộc đột kích Valencia
theo lệnh của Miranda năm 1811.
Năm 1812,ông thất thủ trong trận
đánh tại TP Puerto Cabello do có nội phản. Tháng 7 năm 1812, tướng Miranda
đầu hàng người Tây Ban Nha. Nến
Cộng hòa thứ nhất sụp đổ. Ở thành phố cảng La Guaira. Một nhóm sỹ quan trong đó
có Bolívar định bắt giữ Miranda nhưng không thành công. Ông quyết định tự cứu lấy
bản thân mình và với sự giúp đỡ của một người bạn, ông có được hộ chiếu để đến Curazao
rồi Cartagena de Indias. Ở Cartagena de Indias ông đã viết “Tuyên
ngôn Cartagena”, một trong những tác phẩm quan trọng nhất của mình. Trong
tác phẩm ông đã rút ra những bài học về sự thất bại của nền Cộng hòa thứ nhất ở
Venezuala và vạch ra chiến lược từ Côlômbia đánh về Venezuala để lập lại nền
Cộng hòa tại đây. Thông qua đó, những lý
tưởng chính trị đã được định hình và là kim chỉ nam cho những hành động của
Bolívar sau này.
Ông đã nhiều lần chỉ huy đội
quân ái quốc Cartagena đánh bại các cuộc phản kích của đội quân thực dân, vượt
dãy Andixơ giải phóng TP biên giới Cuncuta. Ngày 14-5-1813, dẫn đầu một đội
quân nhỏ hơn 1000 người, Bolívar vượt sông Magdalena và bắt đầu chiến dịch
giải phóng Venezuela.
Ngày 23-5-1813, Bolívar tiến vào thành phố Méridahttp://vi.wikipedia.org/wiki/Sim%C3%B3n_Bol%C3%ADvar
- cite_note-9 và nhân dân ở đây là những người đầu tiên gọi ông là Người Giải phóng, ngày 9 tháng 6, Bolívar chiếm thành phố Trujillo.
Ngày 15-6-1813, ông đọc bản mệnh lệnh nổi tiếng "Chiến tranh cho đến chết".
Bằng một loạt những trận đánh thông minh, sau 3 tháng, quân đội của Bolívar đã
tiến vào Caracas ngày 6-8-1813. Chiến
dịch đó sau này được gọi là "Chiến dịch thần diệu".
Tháng 10-1813, trong một buổi lễ
long trọng, chính quyền và nhân dân Caracas
đã chính thức tặng cho ông danh hiệu đã đi vào lịch sử "Người Giải phóng".
Sau khi tiến vào Caracas, Bolívar
tuyên bố thành lập nền Cộng hoà Venezuela thứ hai.
Ông được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh đội quân ái quốc. Tuy nhiên, vào năm
1814, tên đầu xỏ thực dân Hôxê
Tômatô Boneixry đã lợi dụng mâu thuẫn giữa những người làm nghề chăn
nuôi trên thảo nguyên với bọn địa chủ da trắng để tổ chức thành một đội
quân bảo
hoàng. Bolívar tiếp tục tiến hành nhiều trận đánh và mặc dù giành được những
thắng lợi quan trọng, ông và tướng Santiago Mariño (người đã giải phóng
miền đông Venezuela) chịu thất bại trước đội quân đông đảo hơn gấp nhiều lần của
tướng bảo hoàng José Tomás Boves trận đánh La Puerta (tháng 6 năm
1814), nền Cộng hoà thứ hai sụp đổ, những người đòi độc lập buộc phải sơ tán
hàng loạt khỏi Caracas về phía đông.
Cảm thấy quyền lực của mình và
tướng Mariño bị thách thức bởi chính những người đồng hành, ông sang Nueva
Granada. Tại đây, Bolívar chỉ huy Quân đội quốc gia Colombia tiến
vào Bogotá năm 1814 và sau đó dự định đến Cartagena để tìm kiếm sự ủng hộ
của người dân địa phương nhằm chiếm thành phố Santa Marta. Tuy nhiên sau
những xung đột quân sự và chính trị với chính quyền thành phố Cartagena,
tháng 5 năm 1815, Bolívar từ bỏ binh quyền để tránh một cuộc nội chiến.
Sau khi lánh sang Jamaica, từ
tháng 5 đến tháng 12 năm 1815, Bolívar kiên nhẫn chờ đợi thời cơ để tiến hành
những cuộc chiến đấu mới. Chính vì thế, ông nghiền ngẫm về số phận của Mỹ Latinh
và tháng 9 năm ấy viết “Bức thư Jamaica” nổi tiếng. Trong
đó, với nhận thức sâu sắc, ông đánh giá quá khứ- hiện tại và tương lai của lục
địa này . Bức thư có thể xem là một bản
cương lĩnh mạnh mẽ về con dường giành độc lập cho các nước Mi latinh và
một mô hình chính trị tương lai: mô hình nhsf nước dân chủ- phân quyền theo các
nước phương Tây.
Sự thất bại của Napoleon ở châu
Âu và một đội quân Tây Ban Nha hùng mạnh do tướng Pablo Morillo dẫn đầu
kéo đến Venezuela đã hâm nóng nhiệt tình của phe bảo hoàng.
Bolívar, sau khi thoát khỏi một
âm mưu ám sát đã đến Haiti nhằm tìm kiếm nguồn tài chính để
tiếp tục cuộc chiến đấu, tổng thống Haiti, Alejandro Petion đã cho ông
vay tiền. Đội quân viễn chinh do Bolívar dẫn đầu đến đảo Margarita năm 1816
và nhanh chóng đổ bộ vào lục địa. Sau khi tấn công chiếm được Carúpano,
ngày 2 tháng 6 năm 1816, Bolívar ra sắc lệnh
giải phóng nô lệ.
Trong khi đội quân đang tiến về Ocumare
de la Costa, thì Bolívar bất ngờ bị tách khỏi bộ phận chủ yếu của quân đội
và buộc phải trở lại Haiti. Ông tổ chức một đội quân thứ hai tiến về đến đảo Margarita
cuối năm 1816. Đầu năm 1817, Bolívar dự định chiếm vùng Guayana để làm
bàn đạp giải phóng hoàn toàn Venezuela và đến tháng 7 năm 1817, ông chiếm được
thủ phủ Angostura (ngày nay là Ciudad Bolívar) của vùng này. Bolívar
thành lập một nhà nước mới, lập ra bộ máy chính quyền và cho xuất bản một tờ báo.
Cuộc chiến đấu của ông không những
diễn ra đối với quân Tây Ban Nha mà còn đối với những mầm mống vô chính phủ
trong vùng. Tháng 10 năm 1817, sau một cuộc diễn tập, tướng Manuel Piar,
một trong những lãnh đạo của những người cộng hòa bị xử bắn ở Angostura. Trong thời gian này, Bolívar
ra sắc lệnh về Luật phân phối của cải
quốc gia.
Năm 1818, ông bất ngờ đột kích quân đội bảo hoàng của tướng Morillo ở
thành phố Calabozo nhưng quân đội
Cộng hòa bị đánh bại, Bolívar suýt nữa bị quân đội bảo hoàng giết chết. Ông trở
về Angostura ngày 5 tháng 6 năm 1818 và lúc đó, đại diện ngoại giao của Mỹ
cùng với một đội quân của những người châu Âu tình nguyện đã tới đây. Bolívar
triệu tập Nghị viện Venezuela đệ nhị ở Angostura ngày 15 tháng 2năm
1819 và đọc một bài diễn văn có vai trò quan trọng trong tư tưởng chính trị của
ông đồng thời đệ trình dự thảo Hiến
pháp. Đồng thời, ông cũng tuyên
bố về sự thành lập của nền cộng hòa thứ
ba ở Venezuala, Bôlivar đã được bầu làm tổng thống.
II.1.2 Sáng lập Đại Colombia
Năm 1819, Bolívar mở chiến dịch
giải phóng Nueva Granada. Quân đội của ông vượt qua dãy Andes, sau những
trận đánh ác liệt tại Gameza ngày 12 tháng 7 năm 1819 và Pantano de
Vargas ngày 25 tháng 7 năm 1819, Bolívar đã giành chiến thắng quyết định trong trận Boyacá ngày 7 tháng 8năm 1819. Tháng
10-1819, ông tiến vào Bogotá và trao quyền chỉ huy ở Nueva Granada cho
tướng Francisco de Paula Santander, Bolívar trở về Angostura. Ở
đó, theo đề nghị của ông, tháng 12 năm 1819, Nghị viện đã ban hành Hiến pháp
Cộng hoà Colombia. Đất nước vĩ đại do Bolívar sáng lập này gồm các nước cộng
hoà Venezuela, Colombia, Ecuador và Panamá.
Quân đội cộng hoà đã giành được ưu thế ở mọi nơi: Cartagena bị
vây hãm, Mérida và Trujillo được giải phóng. Sau cuộc Cách mạng
giải phóng nổ ra ở Tây Ban Nha tháng 1 năm 1820, chính phủ mới của Tây Ban
Nha cố gắng đạt được một hiệp định hoà bình và ở Trujillo, tháng 11 năm 1820
hai bên đã ký kết một thoả thuận ngừng bắn cùng với bản điều ước về chiến
tranh. Sau khi thoả thuận ngừng bắn hết hiệu lực, quân đội cộng hoà bắt đầu
hành quân hướng về Caracas.
Ngày 24 tháng 6 năm 1821, trên
bình nguyên Carabobo, Bolívar đã
giành thắng lợi trong một trận đánh đánh dấu sự khai sinh ra nền độc lập của Venezuela.
Tàn quân của quân đội bảo hoàng lẩn trốn tại Puerto Cabello và cuối cùng tan rã
năm 1823. Ngày 29 tháng 6 năm 1821, Bolivar - Người Giải phóng tiến vào
thành phố quê hương trong sự chào đón hân hoan của nhân dân.
II.1.3 Giải phóng Ecuador.
Cùng với việc giải phóng Venezuala, ông cùng đội quân ái quốc còn tiến về giải phóng Êcuador, nơi vẫn còn nằm dưới sự thống trị của người Tây Ban Nha. Ông tiến qua Maracaibo, Cúcuta rồi tiến đến Bogotá.
Năm 1822, hai cánh quân, mũi
phía bắc do Bolívar chỉ huy, mũi phía nam xuất phát từ Guayaquil do tướng
Antonio José de Sucre chỉ huy bắt đầu tấn công giải phóng Quito.
Sau chiến thắng của tướng Sucre
của trong trận Pichincha ngày 24 tháng 5 năm 1822, Ecuadro được giải
phóng và hợp nhất vào Cộng hoà Đại Colombia. Đến thời điểm này thì đại
Colombia đã được giải phóng và được Mĩ công nhận. Như vậy, ngoài Pêru thì lục đại
Nam Mĩ về co bản đã được giải phóng.
II.1.4 Giải phóng hoàn toàn Peru.
Ngày 25 tháng 7 năm 1822, "Người bảo hộ Perú", tướng José de San Martín từ Peru tới Guayaquil. Trong hai ngày 26 và 27, Bolivar đã có ba cuộc hội đàm bí mật với Martin nhưng giữa họ có có chính kiến khác nhau về nhiều vấn đề như: Guayaquil sẽ thuộc về ai, việc bố trí chính thể Pêrru sau cách mạng như thế nào…. Vì vậy, San Martin đã lẳng lặng lên tàu trở về Achentina. Bolívar lĩnh lấy sứ mạng giải phóng hoàn toàn Peru.
Ngày 7 tháng 8 năm 1823, Bolívar rời Guayaquil đến Callao vào đầu tháng 9 năm đó. Trong tình trạng vô chính phủ, Bolívar đã tổ chức lại quân đội với nòng cốt là những tiểu đoàn của ông.
Khi Lima rơi vào tay quân bảo hoàng và ngày 10 tháng 2 năm 1824, Nghị viện Peru đã phong Bolívar là Tổng tài với quyền lực tuyệt đối trước khi tự giải tán. Bolívar rút về Trujillo để củng cố và chuyển sang tấn công.
Ngày tháng 8 năm 1824 ông đã đánh bại quân đội nhà vua tại Junín Chiến dịch tiếp tục phát triển và trong khi Bolívar tiến vào Lima, vây hãm Callao thì tướng Sucre đã tiêu diệt nốt quân đội nhà vua tại Ayacucho ngày 9 tháng 12 năm 1824. Đến đây chiến tranh giành độc lập kết thúc, ngày 10 tháng 2 năm 1825, tại Nghị viện Perú ở Lima, Bolívar tuyên bố từ bỏ quyền lực tuyệt đối đã được trao cho ông để tiến hành chiến tranh giành độc lập.
Hai ngày sau, Nghị viện Peru đã tuyên bố vinh danh và tặng thưởng cho ông cùng quân đội nhưng ông từ chối tiền thưởng. Bolívar rời thu đô Lima đến Arequipa, El Cuzco và những tỉnh thuộc Thượng Peru (Alto Perú) để quét sạch tàn dư của thực dân Tây Ban Nha. Tháng 8-1825, thượng Peru thành lập nước Cộng hoà Bolívar tức Bolivia ngày nay để tỏ lòng tôn kính đối với ông.
Ngày 22-1-1816, liên quân ái quốc đánh chiếm TP Canlau- cứ điểm cuối cùng của thế lực thực dân Tây Ban Nha. Sự nghiệp vĩ đại do Colombia lành đạo đã giành tháng lợi hoàn toàn.
II.1.5 Sự phân hóa Đại Colombia.
Từ năm 1826 đến hết cuộc đời là khoảng thời gian Bolivar giành nhiều tâm huyết cho việc tạo lập ra một chính thể thống nhất giữa các quốc gia ở Nam Mĩ mà cụ thể là duy trì và phát triển đại Colombia- đất nước do ông sáng lập.
Năm 1826, một cuộc nổi dậy gọi là
La Cosiata do tướng José Antonio Páez lãnh đạo đã nổ ra để chống
lại chính quyền trung ương ở Bogotá.
Tháng 4 năm 1826, Bolívar trở về Caracas
và cố gắng vãn hồi hoà bình. Tuy nhiên những lực lượng ly khai tỏ ra thắng thế
trước xu hướng hợp nhất.
Ngày 5 tháng 7 năm 1827, ông rời Caracas đáp tàu đi La Guaira rồi tới
Bogotá Ngày 10 tháng 9 năm 1827, ông tuyên thệ nhậm chức tổng thống Cộng hoà
Đại Colombia.
Hội nghị lập pháp họp ở Ocaña
tháng 4 năm 1828 đã giải tán mà không đạt được thoả thuận nào giữa những phe đối
lập. Bolívar xưng là Tổng tài ngày 27 tháng 8 năm 1828. Ngày 25 tháng 9 năm 1828,
ông thoát chết sau một vụ ám sát ở Bogotá với sự giúp đỡ của Manuela Saenz.
Không lâu sau, ông buộc phải tiến hành một chiến dịch chống lại những đội quân
của Perú đang đe dọa Ecuador. Bất chấp thể trạng ốm yếu, bệnh tật, ông vẫn kiên
trì bảo vệ những thành quả của mình.
Năm 1830, ông trở về Bogotá để thiết lập Hội đồng Hiến pháp nhưng
Venezuela một lần nữa công khai đòi trở thành một quốc gia độc lập. Tại Nueva
Granada, sự chống đối cũng dần trở nên mạnh mẽ hơn. Bolívar đã suy sụp sức
khỏe, ông từ bỏ chức vụ tổng thống . Đại Colombia tan rã. Qúa trình hoạt động
cách mạng của Bolivar cũng chấm dứt tại đây.
II.2. Vai trò của Bolivar đối với khu vực Nam Mĩ.
Thứ nhất, đối với đất nước Venezala, ông la lãnh tụ kiệt xuất mang
lại nền độc lập cho tổ quốc mình. Ngay sau khi đặt chân về nước, ông đã suy
tính, bàn bạc và mưu cuộc giải phóng dân tộc. Bằng tài năng của mình, ông đã
khôi phục lại nền Cộng hòa của Minranda,
sáng lập nền cộng hòa thứ hai và thứ ba. Năm 1821, sau một thời gian chuẩn
bị kĩ lưỡng, Bolivar dẫn quân trở về Venezuala và giành thắng lợi quyết định trong
chiến dịch Karabobo, đánh dấu sự khai sinh ra nền độc lập của Venezuala.
Bolivar trở thành vị anh hùng giải phóng dân tộc.
Thứ hai, trong quá trình hoạt động cách mạng, Bolivar đã tham gia
472 trận đánh lớn nhỏ, ông từ “người giải
phóng” của dân tộc Venezuala đã trở thành “người giải” phóng cho các dân tộc
khác ở khu vực Mĩ Latinh. Tổng kết từ bài học lịch sử. Bolivar nhận thức được rằng
vận mệnh Tổ quốc gắn liền với độc lập của khu vực Mĩ Latinh. Để bảo vệ thành quả
cách mạng, ông đã dẫn quân từ Venezuala chinh chiến ở miền Bắc Mĩ latinh, đánh
đuổi đội quân thực dân và giải phóng các vùng đất ở đó. Sau đó, ông lại đề nghị
dẫn quân nam tiến để tấn công tàn dư của thực dân ở đó. Trãi qua nhiều năm chiến
đấu gian khổ, bọn tàn quân thực dân Tây Ban Nha cuối cùng đẫ đầu hàng vào năm
1826. Cuộc chiến tranh giành độc lập đấy song gió của Mĩ latinh kết thúc thắng lợi.
Thắng lợi của cuộc chiến tranh giành độc lập do ông lãnh đạo đã khiến cho hàng
loạt các Mĩ latinh giành được cuộc sống mới, đứng vào hàng ngũ các dân tộc độc
lập trên thế giới, đó là: Colombia, Ecuador, Peru, Bolivia. Ngoài sự lãnh đạo về
mặt quân sự, ông còn là nhà lãnh đạo về mặt tư tưởng cho phong trào - viết báo,
ra báo, phát biểu, viết các bức thư. Ông không mệt mỏi gây các quĩ ủng hộ cho
cuộc đấu tranh., góp phần rất lớn vào vào sự thắng lợi của cách mạng.
Thứ ba, ông là người đa đem tư tưởng tự do, bình đẳng đến khu vực
này. Điều đó đã được chứng minh bằng các hành động thiết thực , những chủ
trương cải cách tiến bộ như: tuyên bố xóa bỏ chế độ nô lệ đối với người da đen,
thủ tiêu chế độ cống nạp đối với người Indian, hoàn thành dự luật về tịch thu
ruộng đất cảu bọn địa chủ nhằm đem lại quyền lợi cho nhân dân…. Quan trọng nhất
là với tài năng chính trị kiệt xuất của
mình, ông là người đặt nền móng cho chế độ cộng hòa tại khu vực Nam Mĩ – một thể
chế dân chủ, tiến bộ của thời đại lúc bấy
giờ.
Thứ
tư, ngoài tư tưởng công bằng, tự do và bình đẳng ở trên,, Bolívar đã để lại
cho các dân tộc Mỹ Latinh tư tưởng Liên Mỹ mà đến nay vẫn thường được nhắc tới.
Đó là hòa bình trên cơ sở một khối liên kết thống nhất các nước châu Mỹ. Một
"Thế giới mới sẽ gồm các quốc gia độc lập gắn chặt với nhau bởi luật pháp
chung... Mọi rào cản về xuất xứ, chủng tộc và màu da sẽ biến mất. Trong các thế
kỷ tiếp theo, có thể tiến tới một chính phủ hợp nhất toàn thế giới như một liên
bang". Ông dành nhiều nhiệt huyết của mình cho việc củng cố và phát triển
đất nước đại Colombia- một cụ thể về tư tưởng liên minh các nước Nam Mĩ trong một chính thể thống nhất của ông. Do
khuynh hướng chia tách ở Nam Mĩ lớn hơn nhiều so với các thuộc địa ở Bắc Mĩ, vì
thế đại Colombia đã dần tan rã khi Venezuala và Ecuador tuyên bố rút khỏi đại
Colombia vào năm 1830. Tuy thất bại nhưng những tư tưởng Liên Mĩ do ông để lại
chính là cơ sở, là nguồn cảm hứng cho việc thành lạp một liên minh giữa các nước
ở khu vực Nam mĩ hiện nay, bằng chứng đó la sự ra đời và tồn tại của “Liên minh
Bolivar vì châu Mĩ” viết tắt là ALBA hiện
nay.
Có một điều thú vị khi tìm hiểu
về vai trò của Bolivar đối với phong trào cách mạng Mĩ latinh là ông có rất nhiều điểm giống với
Chủ tịch Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ kinh yêu của dân tộc ta. Hai con người ấy, mỗi
người một khu vực khác nhau, Bolivar ở Nam Mĩ, còn Hồ Chí Minh ở Đông Nam Á, trong
các thời đại khác nhau, nhưng đều được tôn vinh là các lãnh tụ giải phóng của
dân tộc mình. Về phương diện tri thức, họ đều được đào tạo từ việc học tập ở
các nhà bách khoa và các nhà kinh điển, từ nghệ thuật chiến tranh cho đến những
luận đề triết học, tất cả đều giúp cho họ vốn thông tin cơ bản trong lĩnh vực
xã hội học chính trị. Những kiến thức ấy cùng với năng lực uyên bác bẩm sinh và
lòng yêu nước đã làm cho sự nhạy cảm của họ hướng về sự toàn tâm, toàn ý cho mục
đích duy nhất là cứu vãn dân tộc mình khỏi sự áp bức của các thế lực bạo tàn.
Simon Bolivar đã chiến đấu hết mình để chống chế độ thực dân Tây Ban Nha, một
chế độ đã gây ra bao tổn hại đối với Mỹ Latinh bằng sự cướp bóc và sự tàn bạo
chỉ có thể có ở những con người phi nhân tính. Còn Hồ Chí Minh thì đấu tranh chống
lại chế độ thực dân Pháp, chế độ đã cướp đoạt của cải, tài nguyên trên lãnh thổ
Việt Nam trong gần một trăm năm. Bolivar và Hồ Chí Minh rõ ràng là hai nhà cách
mạng mẫu mực. Hai vị lãnh tụ đã từng vượt qua hàng nghìn, hàng vạn dặm đường
trong quá trình cách mạng, đã viết rất nhiều trang sách để truyền bá tư tưởng
chính trị của mình cho tới khi đạt được mục tiêu giải phóng đất nước. Bolivar
và Hồ Chí Minh xứng đáng với sự tôn vinh và lòng ngưỡng mộ của các dân tộc, là
hiện thân của những gì tinh túy nhất trong chủ nghĩa nhân đạo cải tạo thế giới
mà lý do tồn tại của nó dựa trên những giá trị hình thành quyền con người phổ
quát trên thế giới này.
III. Kết luận.
Sau khi đại Colombia tan rã, Ngày 10 tháng 12, ông đã viết một bản tuyên bố gửi nhân dân, đây được coi là di chúc chính trị của Người Giải phóng. Ông dự định sang châu Âu nhưng đột ngột ra đi ngày 17 tháng 12 năm 1830 tại San Pedro Alejandrino, một khu biệt thự ở Santa Marta vì bệnh lao. Đến năm 1942 trong một nghi thức hết sức trang trọng, thi hài ông được chuyển về Venezuela và đặt tại National Pantheon, Caracas. Tuy nhiên, hiện nay Chính phủ Vênêxuêla đã công bố những phát hiện mới về cái chết của Nhà giải phóng châu Mỹ Simon Bolivar. Theo đó nguyên nhân trực tiếp khiến ông qua đời không phải do bệnh lao như giả thuyết chính thức trong lịch sử mà do bị hãm hại hay chỉ là vô tình nhiễm một hàm lượng nhỏ ácsen ảnh hưởng đến cơ thể và dẫn đến tử vong.
Ông đã ra
đi vĩnh viễn nhưng những công lao, đóng góp của ông đối với các quốc gia Nam Mỹ
nói riêng và thế giới nói chung vẫn luôn trường tồn, mãi mãi là một anh hùng dân tộc đáng kính.
Bolívar đã
giữ một vai trò lớn lao trong lịch sử của cả một lục địa, là nhân vật chính yếu
trong cuộc đấu tranh giải phóng của châu Mỹ La tinh khỏi ách thực dân. Ông đã
có sự lãnh đạo về mặt tư tưởng cho phong trào - viết báo, ra báo, phát biểu, viết
các bức thư. Ông hông mệt mỏi gây các quĩ ủng hộ cho cuộc đấu tranh. Và ông là
người lãnh đạo quân sự chính của quân cách mạng
Simón Bolívar là nhân vật chính trị giữ một
vai trò lớn lao trong lịch sử của cả một lục địa. Là một
nhà lãnh đạo xuất sắc , một người có lý tưởng và hoài bão lớn lao , trải qua
nhiều gian lao vất vả cuối cùng Bolivar đã lãnh đạo nhân dân Nam Mỹ đánh đuổi
được thực dân Tây Ban Nha , giành độc lập và tự do cho miền đất này, xứng đáng
với danh hiệu “ Người giải phóng “ . Ghi nhận công lao vĩ đại đó, tên tuổi và
hình ảnh của ông đã hiện hữu nhiều nơi, từ tranh, tượng, sách vở cho đến những
con tem bưu chính không chỉ của các quốc gia Nam Mỹ mà của nhiều quốc gia khác
trên thế giới. Thậm chí, UNESCO còn lập ra giải thưởng Simon Bolivar, trao tặng
hai năm một lần cho những người có đống góp quan trọng trong việc thực hiện lí
tưởng của ông. Ông là một trong 100 nhân
vật có ảnh hưởng nhất đên thế giới thế kỉ XX.
Young Be A:
Young Be A:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nhận xét