PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trung Quốc và Liên Xô là hai nước láng giềng khổng lồ có chung đường biên
giới dài hàng nghìn km, có nền văn hoá, văn minh lâu đời. Hai nước đều có tinh
thần dân tộc rất mạnh mẽ. Lịch sử quan hệ hai nước có nhiều thăng trầm. Đầu thế
kỷ XX, sau Cách mạng Tân Hợi ở Trung Quốc (1911) và Cách mạng Tháng Mười Nga
(1917) thành công, hai nước trở thành đồng minh tự nhiên cùng chung mục tiêu
chống đế quốc can thiệp. Cách mạng Trung Quốc thành công năm 1949 có sự giúp đỡ
to lớn của Liên Xô. Liên Trung - Xô Quốc trở thành đồng minh chiến lược, có
quan hệ hợp tác toàn diện trên cơ sở cùng ý thức hệ và cơ sở pháp lý là Hiệp
ước đồng minh tương trợ (14-2-1950). Tuy nhiên, quan hệ đoàn kết Trung - Xô chỉ
kéo dài được một thập kỷ.
Quan hệ giữa hai nước có lịch sử phát triển
tương đối phức tạp, từng là “đồng minh chiến lược”, sau đó trở thành đối
thủ của nhau, thậm chí có lúc là thù địch trong suốt gần ba thập niên từ năm
1960 đến năm 1980, rồi lại bình thường hóa quan hệ với nhau để cùng hợp tác và
phát triển. Mối quan hệ đầy phức tạp và bất ổn trong giai đoạn này không chỉ
làm tổn hại đến quan hệ giữa hai nước, gây bất ổn cho hệ thống Xã hội chủ nghĩa
(XHCN), mà còn tạo nên những mối đe dọa cho hòa bình, an ninh khu vực. Sự bất
ổn này đã làm cho khu vực Châu Á - Thái Bình Dương không thể yên bình như tên
gọi của nó, mà luôn đứng trước nguy cơ bão táp, thậm chí có lúc phải đối mặt
với “sóng thần”.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai vừa mới kết
thúc không lâu, thì ngay sau đó thế giới lại phải chứng kiến một cuộc chiến mới
chưa từng có trong tiền lệ, đó là cuộc chiến tranh không nổ súng, không đổ
máu, nhưng luôn đặt trong tình trạng căng thẳng đối đầu giữa hai hệ tư tưởng Tư
bản chủ nghĩa (TBCN) và XHCN mà người ta hay gọi là “chiến tranh
lạnh”. Cuộc chiến không chỉ thể hiện sự đối đầu giữa hai hệ thống TBCN và
XHCN, mà còn là sự đối đầu căng thẳng, gay gắt trong nội bộ XHCN, cụ thể là sự
bất đồng, căng thẳng dẫn đến cuộc xung đột biên giới trong quan hệ giữa hai
nước Trung Quốc và Liên Xô giai đoạn cuối thập niên 50 - đầu thập niên 80 của
thế kỉ XX.
Sau mười năm xây dựng mối quan hệ “đồng
minh chiến lược”,từ năm 1959 đến năm 1969, quan hệ Trung - Xô đã từng bước rạn
nứt và dần tan vỡ. Sự bất đồng ban đầu chỉ xoay quanh vấn đề lí luận, nhưng đến
năm 1960 nó đã chính thức được công khai trên các phương tiện thông tin đại
chúng. Từ năm 1961 - 1965, những bất đồng giữa hai Đảng ngày càng lớn và sự đấu
tranh gay gắt giữa hai nước không ngừng tăng lên, đặc biệt là sau cuộc gặp gỡ
giữa những nhà lãnh đạo của hai Đảng ở Matxcơva (từ ngày 5 - 20-7-1963). Trong
bầu không khí căng thẳng, bế tắc cuộc chiến về chính trị giữa hai nước chính
thức bắt đầu, công kích lẫn nhau thông qua thư từ báo chí; chia rẽ Đảng phái,
chống đối lẫn nhau. Đến cuối thập niên 60 thế kỉ XX, những bất đồng, căng thẳng
trong quan hệ giữa hai nước không chỉ diễn ra giữa hai Đảng, cũng không dừng
lại ở công kích, chống đối lẫn nhau nữa, mà nó ngày càng diễn ra phức tạp: điển
hình là những cuộc xô xát nhỏ đã diễn ra ở Matxcơva và Bắc Kinh lôi kéo nhiều
học sinh, công nhân và quần chúng tham gia. Giữa lúc đó, sự kiện Liên Xô tiến
đưa quân vào Tiệp Khắc năm 1968 càng làm cho Trung Quốc cảnh giác hơn. Trung
Quốc đã tố cáo Liên Xô là “Đế quốc xã hội”và cũng từ đây vấn đề biên giới giữa
hai nước được đẩy lên đến đỉnh cao.
Sự đối đầu giữa hai nước XHCN lớn nhất ở thời
điểm này vượt ra ngoài sự mong chờ của Mỹ, là cơ hội vàng để Mỹ kéo Trung Quốc
về phía mình, tăng thêm đồng minh và sức mạnh nhằm chống lại Liên Xô. Về phía
Trung Quốc với tư tưởng “kẻ thù của kẻ thù là bạn”, Trung Quốc đã nhanh
chóng ngã về phía Mỹ, chấm dứt thời kì thực hiện chính sách đối
ngoại “giương cung bắn cả hai phía” của những năm 1960, chuyển hướng
sang thực hiện chính sách đối ngoại “hợp tung” bắt tay với Mỹ, dựa
vào Mỹ để phát triển và chống Liên Xô.
Quan hệ Trung - Xô càng căng thẳng bao nhiêu,
thì quan hệ Trung - Mỹ càng phát triển bấy nhiêu . Từ tháng 8-1973, sau Đại hội
X Đảng Cộng sản Trung Quốc, chủ trương chống Liên Xô của đường lối đối ngoại
Bắc Kinh đã được xác nhận về mặt pháp lý. Chủ tịch Trung Quốc Mao Trạch Đông đã
đưa ra và nhấn mạnh thuyết “Ba thế giới” (Liên Xô và Mỹ là thế giới
thứ nhất, lực lượng trung gian: Canađa, Nhật Bản, Châu Âu là thế giới thứ hai,
còn Trung Quốc là thế giới thứ ba). Thực chất học thuyết thế giới thứ ba của
Mao Trạch Đông chỉ được dùng làm bình phong cho chính sách “liên
Mỹ” của Trung Quốc nhằm chống Liên Xô và thực hiện chính sách “bá
quyền nước lớn”.
Lịch sử không lặp lại, nhưng những qui luật của
lịch sử trong quá khứ thì không thể không khẳng định trong hiện tại và tương
lai. Quan hệ giữa Liên Bang Nga và Trung Quốc trong những năm gần đây luôn thu
hút được sự chú ý của các nhà chiến lược thế giới, bởi sự nồng nàn và thân mật
của nó. Nhưng ngược dòng lịch sử nhìn lại quá khứ, mối quan hệ đối tác chiến
lược Nga - Trung hiện nay đã từng trải qua hai mươi năm đầy sóng gió và thăng
trầm. Vì thế, muốn phân tích sâu sắc và toàn diện hơn mối quan hệ giữa Liên
Bang Nga và Trung Quốc hiện nay, cũng như để đánh giá xu hướng phát triển của
mối quan hệ này trong tương lai, ta phải bắt đầu nhìn nhận và đánh giá từ những
cơ sở trong quá khứ, đặc biệt là quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn năm 1959
- 1979. Đó là lí do chúng em mạnh dạn chọn đề tài “Quan hệ Trung - Xô giai
đoạn 1959 - 1979” để làm bài nghiên cứu khoa học.
2. Lịch sử vấn đề
Quan hệ Trung – Xô giai đoạn 1959 -1979 đã được
rất nhiều học giả nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể kể đến một số
công trình tiêu biểu liên quan đến vấn đề:
Lý Kiện (Trung Quốc) với cuốn “Trung - Xô -
Mỹ cuộc đối đầu lịch sử” (NXB Thanh niên, năm 2008), cuốn sách cho người
đọc một cái nhìn tổng thể về mối quan hệ tay ba chiến lược Trung - Xô - Mỹ.
Hàng loạt sứ kiện được dẫn chứng để làm sáng tỏ sự chuyển biến trong mối quan
hệ tay ba, cùng những vấn đề có liên quan. Nhưng nhận định cho mối quan hệ
Trung - Xô giai đoạn này vẫn còn bỏ ngõ chưa được tác giả đi sâu phân tích một
cách xác đáng.
“Một thiên sử sáu đời tổng thống Mỹ -
Trung” của Patric Tyler (NXB Công An Nhân Dân, năm 2008), ấn phẩm trình
bài “một bức tranh bất ngờ và đáng lưu tâm hiện ra, từ điều tra rất lý thú về
diễn biến quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ qua sáu đời tổng thống Mỹ. Với sự va
chạm ở mức độ cao giữa hai cường quốc, đây là một giai đoạn lịch sử với những
diễn biến không thể đoán định”, tất yếu chính sách đối ngoại của Mỹ -
Trung dành cho nhau là những nỗi bật trong tác phẩm, tâm điểm là vấn đề Đài
Loan; nhân tố Liên Xô và đỉnh cao là cuộc xung đột Trung - Xô - Mỹ được đề cập
đến trong cuốn sách như là cơ sở cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của
cả Mỹ - Trung Quốc lẫn Liên Xô và “ván bài Liên Xô” đã được sử dụng
trong tiến trình bình thường hóa quan hệ Mỹ - Trung với những nhận định cơ bản.
“Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Á từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai đến cuối chiến tranh lạnh (1945 - 1991)” của Lê
Phụng Hoàng (NXB ĐHSPTP HCM, năm 2005), cho người đọc thấy Đông Nam Á cũng như
nhiều khu vực trên thế giới không thoát khỏi ảnh hưởng bởi cuộc chiến tranh
lạnh do hai siêu cường Xô - Mỹ tạo nên. Trung Quốc cũng phải nổ lực để xác lập
cho mình một vị thế. Mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước lớn trong đó có
Liên Xô cũng được tác giả đề cập đến một cách có hệ thống từ khi CHND Trung Hoa
ra đời đến kết thúc chiến tranh lạnh. Các vấn đề như: xung đột biên giới Trung -
Xô, sự điều chỉnh chiến lược của Trung Quốc cũng được đề cập đến để cho thấy nó
cũng chính là nhân tố góp phần chi phối quan hệ Trung - Xô trong chiến tranh
lạnh.
“Các vấn đề chính trị quốc tế ở Châu Á - Thái
Bình Dương” của Yahuda (NXB văn học, năm 2006), ấn phẩm này trước tiên sẽ
cung cấp một cái nhìn tổng thể về khu vực nói chung với những chuyển biến của
nó từ năm 1945 đến nay; sự thay đổi trong cán cân quyền lực ở cấp độ khu vực và
toàn cầu; phân tích sự tách biệt các quyền lợi và chính sách của hai siêu cường
Mỹ - Liên Xô hiện diện ở khu vực; và cuối cùng là các chương viết lần lượt về
Trung Quốc và Nhật Bản, hai cường quốc của khu vực có tầm ảnh hưởng toàn cầu.
Trong tác phẩm tác cũng đề cập đến vấn đề liên minh Trung Quốc - Liên Xô sụp
đổ, chủ yếu là những vấn đề liên quan đến chính trị quốc tế và chiến
lược. “Cuộc xung đột Trung Quốc - Liên Xô cuối cùng đạt đến mức có thể tạo
ra những thay đổi căn bản trong cán cân quyền lực trung tâm suốt thời kì chiến
tranh chiến tranh lạnh”.
“Chủ nghĩa Mao chống phong trào cộng sản thế
giới” của tác giả Phơ - Ren - Xơ - Va - Rơ - Nai (NXB Thông tin lý luận,
Hà Nội - 1982), tác phẩm nghiên cứu sự phát triển các quan điểm của chủ nghĩa
Mao qua các giai đoạn khác nhau của cách mạng thế giới, vạch trần bản chất lý
luận và thực tiển của chủ nghĩa Mao. Bằng những chất liệu thực và cụ thể tác
giả đã vạch trần am mưu của mao Trạch Đông và bọn tay chân chống phá phong trào
cộng sản thế giới qua các giai đoạn khác nhau. Trong cuốn sách, tác giả đã
chứng minh rằng, chủ nghĩa Mao không chỉ là một tai hại đối với Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, đối với nhân dân Trung Quốc, cách mạng Trung Quốc và vận mệnh của
CNXH ở Trung Quốc, mà còn là tai hại đối với phong trào Cộng sản và công nhân
quốc tế, đối với phong trào cách mạng thế giới và đối với toàn nhân loại. Tác
phẩm đề cập đến vần đề mâu thuẩn giữa Trung Quốc - Liên Xô: bắt đầu từ sự đối
lập của phong trào Cộng sản thế giới chuyển sang thời kì hậu chiến công khai
đến đoạn tuyệt và chia rẽ giữa hai nước XHCN anh em một cách khá rõ ràng. Tuy
nhiên những nhận định và đánh giá cho mối quan hệ này vẫn còn mang tính chủ
quan, đứng trên lập trường và tư tưởng của người viết.
Liên quan đến vấn đề này còn có khá nhiều tác
giả đã có những bài viết đề cập đến quan hệ Trung - Xô giai đoạn 1959 - 1979.
trong đó tiêu biểu nhất là bài viết của thạc sĩ nguyễn Thanh Thủy (Cao đẳng sư
phạm Hải Dương), với bài viết “Hai mươi năm sống gió trong quan hệ Liên
Trung - Xô Quốc (1959 - 1979)”, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Châu Âu. Khắc họa
khá rõ nét mâu thuẩn Trung - Xô giai đoạn này qua từng thời kì phát triển của
lịch sử.
Như vậy, việc nghiên cứu mâu thuẫn Trung - Xô
giai đoạn 1959 - 1979 đã có và khá phong phú. Tuy nhiên, có một điều dễ nhận
thấy là, chưa có một công trình cụ thể nào đề cập đến mối quan hệ đầy thăng
trầm và phức tạp trong giai đoạn này, một cách hoàn chỉnh và sâu sắc trên nhiều
phương diện, vấn đề này hiện vẫn còn bỏ ngõ. Vì vậy, Trên cơ sở kế thừa và phát
huy những công trình đi trước của các học giả, với đề tài “Quan hệ Trung -
Xô giai đoạn 1959 - 1979”, hy vọng phần nào hoàn chỉnh thêm những nhận định về
mối quan hệ này giữa hai nước.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu: đề tài đi sâu vào nghiên
cứu những mâu thuẫn, xung đột trong quan hệ Trung - Xô (1959 - 1979), qua đó
giúp chúng ta có cái nhìn tổng quát, sâu sắc và hiểu đúng hơn về mối quan hệ
trung - Xô trong giai đoạn này với sự chuyển biến trong chính sách đối ngoại
của mỗi nước.
Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục tiêu nghiên
cứu đề ra thì đề tài cần thực hiện những nhiệm vụ sau:
- Khái quát được quan hệ Trung - xô trước năm
1959.
- Làm rõ quan hệ Trung - Xô giai đoạn 1959 -
1979, những nhân tố ảnh hưởng đến quan hệ Trung - xô giai đoạn này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là quan hệ giữa Trung Quốc
- Liên Xô, một mối quan hệ đầy thăng trầm với những “toan tính” của
mỗi bên.
Phạm vi nghiên cứu được giới hạn trong khoảng
thời gian 1959 - 1979. đây là giai đoạn mà tình hình quốc tế có những biến đổi,
đặc biệt là quan hệ giữa các nước lớn trong xu thế vận động đối đầu giữa hai hệ
tư tưởng lớn trong chiến tranh lạnh, nó đã ảnh hưởng rất lớn đến chính sách đối
ngoại của các nước lớn trong giai đoạn này đặc biệt là mối quan hệ đầy mâu
thuẫn giữa hai cường quốc XHCN lớn là Liên Xô và Trung Quốc trong thời gian
này. Phạm vi nghiên cứu cũng được giới hạn trên lỉnh vực ngoại giao, chính trị
là chủ yếu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên quan điểm Mác -
xít, quan điểm đối ngoại của Đảng, nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Đề tài vận dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
yếu sau: phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp lịch sử kết hợp
với phương pháp lôgic, phương pháp so sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp.
6. Đóng góp của đề tài
Đề tài được thực hiện trên cơ sở tiếp thu, kế
thừa thành quả của các nhà nghiên cứu trước đó. Dù vậy, chúng em vẫn cố gắng có
những đóng góp nhất định trong đề tài của mình, dựng lại bức tranh tương đối
toàn diện về mối quan hệ Trung - Xô giai đoạn 1959 - 1979 đặc biệt là cuộc
chiến tranh biên giới 1969 với những nhận định, đánh giá có hệ thống những nhân
tố góp phần tác động đến mối quan hệ đầy thăng trầm và phức tạp này.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo,
phụ lục, đề tài còn có hai chương:
Chương 1: Khái quát quan hệ Trung Quốc - Liên Xô
trước năm 1959
Chương 2: Quan hệ Trung Quốc - Liên Xô giai đoạn
1959 - 1979
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT QUAN HỆ TRUNG QUỐC - LIÊN XÔ
TRƯỚC NĂM 1959
1.1. Khái quát bối
cảnh quốc tế từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 đến cuối thập niên 50 thế kỉ
XX
Khi đại chiến thế giới thứ hai sắp kết thúc,
nhân loại tiến bộ hi vọng giá trị hòa bình sẽ được đề cao trên đóng tro tàn do
cuộc chiến tranh gây ra. Nhưng sự hi vọng và niềm tin đó nhanh chóng bị phá vỡ,
“tương lai chợt bừng sáng. Bóng tối xua tan. Rừng rực một không khí cuồng
hoan…Người ta đang hoan hô. Người ta đang nhảy múa. Họ tưởng chiến tranh đã
chấm dứt. Mà chiến tranh lại mới chỉ bắt đầu” [8;3]. Một cuộc chiến tranh mới
diễn ra ngay sau đó - Chiến tranh Lạnh, góp phần tạo nên cục diện quan hệ quốc
tế đầy biến động hơn nửa thế kỷ, trong đó Mỹ đứng đầu khối TBCN và Liên Xô đứng
đầu khối XHCN đóng vai trò chủ đạo.
Chiến tranh lạnh là một trong những chương lạ
nhất trong lịch sử quan hệ quốc tế, cuộc chiến xoắn tất cả các quốc gia vào
cùng một quỹ đạo, nhưng lại bị chi phối bởi các siêu cường.
Liên Xô hay Mỹ đã làm cho mối quan hệ quốc tế
trở nên căng thẳng từ 1945 đến 1991, để thế giới luôn sống trong tình trạng
chiến tranh thường trực. Đặc trưng của chiến tranh lạnh được tạo nên bởi sự
nghi ngờ lẫn nhau, sự mất lòng tin, hiểu lầm giữa Mỹ và Liên Xô, cùng các đồng
minh của họ. Mỹ cáo buộc Liên Xô tìm cách tuyên truyền, mở rộng CNCS trên phạm
vi toàn cầu. Trong khi đó, Liên Xô lập luận Mỹ đang tiến hành ý đồ đế quốc và
ra sức ngăn chặn nền độc lập, tự do ở các nước. Mỹ muốn một thế giới của các
quốc gia độc lập với nguyên tắc tự do dân chủ là nền tảng – “hòa bình kiểu
Mỹ”. Liên Xô thì muốn giữ những khu vực quan trọng cho lợi ích quốc gia. Theo
lập luận trên, do sự “hiểu lầm” giữa Mỹ và Liên Xô đã tạo nên cục diện đối đầu
Đông - Tây.
Với ưu thế nổi trội trên tất cả các lĩnh vực, Mỹ
có điều kiện triển khai chiến lược toàn cầu của mình sau chiến tranh thế giới
thứ hai. Trong số các nước tư bản hùng mạnh trước chiến tranh thì Ý, Đức, Nhật
Bản đã bị đánh bại; Anh, Pháp cũng không tránh khỏi sự tàn khốc do chiến tranh
gây ra. Năm 1946, Mỹ chiếm đến 62% sản lượng công nghiệp và 40,1% tổng giá trị
hàng hóa xuất khẩu của thế giới tư bản, trở thành nước cung cấp và chủ nợ cho các
nước tư bản phụ thuộc. Giữ ưu thế tuyệt đối về mặt quân sự, độc quyền về vũ khí
nguyên tử, có 1,2 triệu quân đóng ở 58 nước, trên 400 căn cứ không quân và hải
quân khắp thế giới, nhiều tổ chức quốc tế, quân sự có sự tham gia và chịu sự
chi phối rõ nét của Mỹ [6;46]. Rõ ràng, sau chiến tranh thế giới thứ hai là
thời đại của Mỹ, nước này đã không bỏ lỡ cơ hội ra sức gia tăng vị thế, vai trò
trong quan hệ quốc tế.
Nếu xem xét tổng thể khối TBCN, thì những năm
đầu sau thế chiến thứ hai, khối này giảm sút về địa vị quốc tế trên nhiều mặt,
khi đó với vai trò là lực lượng chủ chốt trong cuộc chiến chống chủ nghĩa phát
xít, vị thế và hình ảnh của Liên Xô, CNXH được nâng cao hơn bao giờ hết. CNXH
trở thành hệ thống thế giới, làm chổ dựa cho phong trào giải phóng dân tộc xuất
hiện ngay trong lòng chiến tranh thế giới thứ hai và sau chiến tranh đã nhanh
chóng phát triển thành cao trào. Điều này đã thách thức nghiêm trọng ưu thế chủ
nghĩa đế quốc, sự ảnh hưởng của Liên Xô và CNXH trên thế giới ngày càng tăng,
do đó nó có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Washington. Trong giai đoạn
khoảng thời gian hai thập niên sau thế chiến thứ hai Mỹ triển khai đường lối
đối ngoại với một số điểm nổi bật: Củng cố liên minh quân sự với các nước
đồng minh phương Tây cũ; Mở rộng các liên minh mới để hạn chế sự bành chướng
của khối CNXH; Phát triển viện trợ, tái thiết sau chiến tranh và giúp đỡ cần
thiết các quốc gia sụp đổ từ cuộc chiến, các quốc gia mới giành độc lập không
rơi vào ảnh hưởng của khối XHCN [6;604]. Theo đó, với nhiều biện pháp được
triển khai một cách cụ thể nhằm ngăn ngừa “sự mở rộng của CNCS”, bảo
vệ “thế giới tự do”
Ngày 12-3-1947, tổng thống Mỹ - Truman trong bài
diễn văn trước Quốc hội chính thức phát động cuộc chiến tranh Lạnh chống Liên
Xô, CNXH. Mỹ đã chọn Châu Âu là chiến trường chính để chống lại sự lan rộng của
CNCS, thông qua gói viện trợ 400 triệu USD về quân sự, kinh tế cho chính phủ
Thổ Nhĩ Kì và Hy Lạp, sau khi Anh thông báo với các quan chức ngoại giao Mỹ là
nước này không đủ sức cung cấp tài chính cho các nước nói trên, yêu cầu Mỹ phải
can thiệp vì nếu “không kiểm soát được hai quốc gia này, CNCS có khả năng sẽ
lan rộng về phía Nam Iran và tận phía Đông Ấn Độ”. Như vậy, chiến lược ngăn
chặn của Mỹ không chỉ giới hạn, hạn chế sử mở rộng của Liên Xô mà còn mở rộng
đến việc ngăn chặn sự bành trướng của CNCS ở bất cứ nơi nào trên thế giới. Mỹ
tin tưởng sự thành công của kế hoạch “ngăn chặn” phải dựa vào việc chính phủ và
nhân dân Mỹ cùng toàn thể nhân dân các quốc gia “tự do” nhận thức được: chiến
tranh lạnh thực tế là một cuộc chiến tranh thực sự có quan hệ đến sự sống còn
của thế giới tự do.
Những động thái từ Matxcơva luôn nhận được sự
quan tâm đặc biệt từ Washington, điển hình như sự kiện tháng 9-1949 điện
Kremlin thử thành công bom nguyên tử. Sự kiện này tác động một cách mạnh mẽ vào
lòng tự hào của người Mỹ về loại vũ khí hủy diệt. Bởi vì, độc quyền về bom
nguyên tử của Hoa Kì là thứ để dành và mang ra sử dụng khi có mâu thuẫn về
quyền lực hậu chiến với Liên Xô. Ngay sau đó, kế hoạch mang tên bản ghi nhớ 68
của Hội đồng an ninh quốc gia (NSC - 68) được Quốc hội Mỹ thông qua, chính thức
khởi động cuộc chạy đua vũ trang với Liên Xô kéo dài suốt mấy thập kỷ. Cuộc
chạy đua này trở thành một bộ phận quan trọng của chiến tranh Lạnh, đồng thời
góp phần lớn chi phối các vấn đề trong quan hệ quốc tế cũng như quan hệ song
phương Mỹ - Xô từ sau thế chiến thứ hai.
Có thể thấy, bằng những chính sách, biện pháp
ngoại giao Mỹ đã góp phần thổi bùng ngọn lửa chiến tranh Lạnh phục vụ cho chiến
lược toàn cầu của nước này. Hầu hết các đời tổng thống đều đưa ra những học
thuyết để làm nền tảng cho chính sách ngoại giao, qua đó thể hiện một phần tham
vọng lãnh đạo thế giới. Chủ nghĩa Aixenhao và chiến lược trả đũa ồ ạt thực hiện
chính sách “bên miệng hố chiến tranh”, đem vũ khí nguyên tử ra hù dọa nhằm
buộc đối phương lùi bước; chiến lược phản ứng linh hoạt và chính sách đối
ngoại “vì hòa bình” của G.Kennedy (1961 - 1968) với tuyên
bố “chúng ta hãy làm cho mọi người biết rằng chúng ta sẽ trả bất cứ giá
nào, gánh vác bất cứ gánh nặng nào, đương đầu với bất cứ sự gian khổ nào để đảm
bảo sự sống còn và thắng lợi của thế giới tự do”. Trước năm 1970, trong các học
thuyết, quan trọng nhất là học thuyết Truman với chiến lược ngăn chặn CNCS
(1946 -1952) đặt nền tảng cho các học thuyết toàn cầu về sau, với học thuyết
này đánh dấu bước ngoặt can dự sâu rộng của Mỹ trong quan hệ quốc tế, do ý thức
về một nước Mỹ siêu việt, là trung tâm của mọi quốc gia được xây dựng trên nền
tảng tự do, dân chủ, Mỹ phải có trách nhiệm ủng hộ, đẩy mạnh sự “tự do” ở khắp
nơi. Vì vậy, phát động một cuộc chiến tranh chống lại sự “độc đoán, thiếu
tính tự do dân chủ” là đều tất yếu, để thành công thì trước hết phải ngăn
chặn nơi đã sinh ra nó, ngăn chặn để trách sự lây lan toàn cầu vì cộng sản vừa
là một khối thống nhất, vừa có tính quốc tế với trung tâm đầu não là Matxcơva.
Trong chính sách ngăn chặn, Truman đã vạch ra mục tiêu cụ thể, điều cần thiết
nhất vẫn là ngăn chặn CNCS.
Quan điểm Liên Xô cũng là nhân tố góp phần đưa
quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới hai trong tình trạng nóng, lạnh. Lý
giải cho nhận định này, dựa trên cơ sở sự hiện diện quân sự của Liên Xô khắp
Đông Âu, hướng các quốc gia Đông Âu theo hệ tư tưởng cộng sản và điều quan
trọng Liên Xô ra sức truyền bá hệ tư tưởng này ở khắp nơi trên thế giới Liên Xô
từ chối bầu cử tự do tại Ba Lan và Tiệp Khắc, sự can thiệp của họ ở Hy Lạp, Thổ
Nhĩ Kì và Iran, hỗ trợ cho lực lượng cộng sản ở Trung Quốc, và sự phản đối của
Mỹ với các kế hoạch hậu chiến cho việc kiểm soát và thúc đẩy phát triển kinh tế
- như kế hoạch Buruch, kế hoạch Marshall.
Chiến tranh lạnh là kết quả của cuộc tranh giành
và mở rộng phạm vi thế lực giữa Liên Xô và Mỹ, phía Mỹ và Liên Xô đều có những
lập luận lên án, quy đổi trách nhiệm cho nhau vì đã gây nên tình trạng căng
thẳng trong quan hệ quốc tế nói chung và quan hệ giữa hai nước nói riêng từ
1945 - 1991. Mỹ và Liên Xô đều là những siêu cường duy nhất sau chiến tranh thế
giới thứ hai, những chính sách đối ngoại của hai nước đều có ảnh hưởng nhất
định đến quan hệ quốc tế giai đoạn này.
Như vậy, sự liên minh Mỹ - Xô trong chiến tranh
chống chủ nghĩa phát xít chỉ là liên minh tạm thời do tình thế bắt buộc, theo
các nói của một sử gia, đó là “cuộc hôn nhân không có tuần trăng mật”. Cuộc hôn
nhân đầy toan tính này sớm tan vỡ, hai bên đã công khai lên án chính sách lẫn
nhau. Hàng loạt các công cụ, biện pháp, thiết chế, chiến lược đã được huy động
để phục vụ cho cuộc chiến, làm toàn bộ đời sống quốc tế bị bao phủ bởi không
khí băng giá, đối đầu.
Cuộc chiến diễn ra khắp các mặt trận từ kinh tế,
chính trị đến quân sự, khắp các châu lục từ Âu sang Á, từ Mỹ sang Phi. Nó đã
gây ra tình trạng nóng, lạnh trong quan hệ giữa hai nước và lôi cuốn cả thế
giới luôn tồn tại trạng thái chiến tranh thường trực. Và đây là một đặc điểm
quan trọng của chiến tranh lạnh.
Từ một nước XHCN đều tiên trên thế giới, sau
chiến tranh thế giới thứ hai, CNXH có điều kiện để phát triển, Liên Xô là nước
đi tiên phong. Các nước Đông Âu sau khi giành độc lập đều đi theo con đường
Liên Xô. Khu vực Châu Á, Liên Xô cũng gia tăng ảnh hưởng như Mỹ: công nhận và
quan hệ hữu nghị với CHND Trung Hoa, Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa… Đến đầu thập
niên 60, Matxcơva cũng tập hợp được một liên minh vững chắc để đối đầu với khối
TBCN. Chạy đua vũ trang, kinh tế giữa hai cường quốc không nằm ngoài mục tiêu
loại trừ đối phương, năm 1949 Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV); ngày 14-5-1955,
Liên Xô và đồng minh thành lập khối quân sự Vacsava. Như vậy, cuộc đối đầu Mỹ -
Xô đã được triển khai khắp các mặt trận.
Tóm lại, quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế
giới thứ hai nổi bật là mối quan hệ Mỹ - Xô, tạo thành hai cực với hai hệ tư
tưởng đối nhau, góp phần tác động đến đường lối đối ngoại của nhiều nước, nhiều
khu vực trên thế giới. Cuộc chiến tranh lạnh được khởi xướng bởi Mỹ và Liên Xô.
Hai bên tham gia vào chạy đua vũ trang từ vũ khí thông thường đến vũ khí hạt
nhân, tạo lập một hệ thống liên minh, liên quan đến các chiến dịch quân sự
nhưng không trực tiếp đối nhau, cung cấp viện trợ đáng kể cho đồng minh, tận
dụng các hoạt động gián điệp, bí mật, tham gia vào các cuộc chiến tranh tuyên
truyền để giúp duy trì các mục tiêu hơn nữa thế kỷ. Nhìn lại 2 thập kỷ đầu của
cuộc chiến thì tình trạng căng thẳng giữa hai cực là đặc điểm nổi bật nhất,
quan hệ giữa Hoa Kì với các nước đồng minh Liên Xô cũng trong tình trạng tương
tự, với Trung Quốc là một điển hình.
1.2. Quan hệ Trung - Xô (1949 - 1959)
1.2.1. Những mối quan hệ tốt đẹp giai đoạn 1949
- 1956
Mối quan hệ tốt đẹp này diễn ra đúng vào thời
điểm khi cuộc chiến tranh lạnh đang phát triển, quan hệ Xô - Mỹ đang đi đến chỗ
đoạn tuyệt, thắng lợi hoàn toàn của Đảng cộng sản Trung Quốc trong cuộc nội
chiến với Quốc Dân Đảng bị các giới chính trị, tài phiệt và báo trí Mỹ tiếp
đoán với mối ác cảm nặng nề và đã gây ra một chấn thương lớn trong dư luận Mỹ.
Hoàn cảnh lịch sử này không cho giới lãnh đạo Trung Quốc có nhiều lựa chọn
trong chính sách đối ngoại. ngày 30-6-1949 Đảng cộng sản Trung Quốc đại diện là
Mao Trạch Đông tuyên bố chính sách “ngả hẳn một bên” (nhất biên đảo) trong
đường lối ngoại giao của nước này, theo đó sẽ trở thành đồng minh với Liên Xô,
các nước dân chủ nhân dân, giai cấp vô sản nhằm hình thành một mặt trận quốc tế
thống nhất chống lại Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ. Độc lập, an ninh quốc
gia được xem là nhân tố hàng đầu để Bắc Kinh đưa ra tuyên bố trên. Cuối những
năm 40, giới lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc đã nhận thấy trật tự thế giới
sau thế chiến hai sẽ chia thành hai phe, một dưới sự lãnh đạo của Liên Xô, phần
còn lại do Mỹ và Trung Quốc đã xem cuộc cách mạng mà họ đang tiến hành theo hệ tư
tưởng vô sản là một phần không thể tách rời của phong trào cách mạng vô sản do
Liên Xô đi đầu. Đây là một sự lựa chọn bắt buộc, không thể tồn tại với thái độ
trung lập trong bối cảnh đương thời, điều này cho thấy “không thể do ý nguyện
của bản thân Trung Quốc quyết định được, mà mấu chốt là thái độ của Mỹ và Liên
Xô” [8;151]. Với sự lựa chọn ngã hẳn về một bên vì an ninh quốc gia, trước mắt
là sự đe dọa từ Mỹ, trong cuộc nội chiến Đảng cộng sản Trung Quốc đã tỏ ra mong
muốn Mỹ sẽ đóng vai trò là trung gian hòa giải với Quốc dân Đảng nhằm chống lại
cuộc nội chiến với nhân dân. Nhưng niềm tin đó đã nhanh chóng bị tan vỡ vì sự
can thiệp của Washington đã làm cho việc đi đến một nước Trung Quốc trở nên khó
khăn hơn, lâu dài hơn. Trong cuộc họp của bộ chính trị tháng 1-1949 với báo cáo
“tình hình hiện nay và nhiệm vụ của Đảng năm 1949” việc Mỹ tham gia vào nội
chiến đã trở thành chủ đề quan tâm của hội nghị, Mao đã phát biểu “khi chúng ta
lập kế hoạch chiến tranh, chúng ta luôn đưa ra dự kiến Mỹ có thể gửi quân chiếm
một số thành phố ven biển và đụng đầu trực tiếp với chúng ta. Chúng ta nên
chuẩn bị cho đều này từ ngay bây giờ nếu đều đó xảy ra”. Và Đảng cộng sản Trung
Quốc có niềm tin rằng: nếu cách mạng nước này thành công, các nước đế quốc sẽ
can thiệp quân sự cũng giống như những gì mà họ đã làm đối với cách mạng Tháng
Mười Nga 1917. Do vậy, bằng cách liên minh với Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Mao
và Đảng cộng sản Trung Quốc hy vọng nước này sẽ có một vị trí tương xứng đủ thế
và lực để đối phó với một nước Mỹ thù địch.
Và khi cách mạng Trung Quốc thành công, những
phản ứng của chính quyền Washington như cấm vận kinh tế, ban bố quyết định bảo
vệ Đài Loan, sau đó là cuộc chiến tranh Triều Tiên diễn ra, Bắc Kinh ngày càng
tin Mỹ đã đặt họ vào vị trí tiền tiêu trong cuộc chiến tranh lạnh ở Châu Á, là
mục tiêu chính trong chiến lược ngăn chặn và cô lập của Washington. Vì vậy,
chính sách “nhất biên đảo” ngày càng được củng cố thêm niềm tin cho
Đảng cộng sản và nhân dân Trung Quốc “trên trường quốc tế, chúng ta (Trung Quốc)
thuộc trận tuyến chống đế quốc do Liên Xô đứng đầu, sự viện trợ hữu nghị chân
chính có thể tìm thấy ở đây, không thể tồn tại được ở trận tuyến chống đế quốc”
[8;157]. Sau khi thiết lập ngoại giao chính thức, để tăng thêm tinh thần đoàn
kết XHCN trãi qua các cuộc đàm phán đến ngày 14-2-1950 “Hiệp ước hữu nghị, liên
minh và tương trợ lẫn nhau Trung - Xô” đã được kí kết giữa hai nước, theo đó
những hiệp ước kí kết giữa Liên Xô và chính phủ Quốc Dân Đảng trước đó bị hủy
bỏ. Nội dung của hiệp ước được quy định rõ ràng, “các bên cam kết thực
hiện mọi biện pháp cần thiết có thể nhằm ngăn ngừa sư lập lại hành động xâm
lược và phá hoại hòa bình từ phía Nhật hay từ mọi quốc gia nào khác liên minh,
trực tiếp hay gián tiếp, với Nhật trong các hoạt động xâm lược; trong trường
hợp một trong hai bên kí kết là mục tiêu tiến công của Nhật hay của một quốc
gia liên minh với Nhật, và do vậy ở trong tình trạng chiến tranh, nước kí kết
còn lại sẽ ngay lập tức mang đến, bằng mọi phương tiện có thể được, sự giúp đỡ
về quân sự và những sự giúp đỡ khác…”. Điều 3 ghi rõ: “các bên kí kết
sẽ không kí kết bất kì liên minh nào chống lại một trong hai nước kí kết và sẽ
không tham gia bất kì mối liên hiệp, tiến hành các hoạt động hay biện pháp
chống lại một trong hai nước kí kết” [3;112]. Điều quan trọng Trung - Xô
sẽ hợp tác trên một tinh thần hữu nghị, phù hợp với các nguyên tắc bình đẳng
cùng có lợi, tôn trọng lẫn nhau về chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không được
phép can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; hợp tác không chỉ về mặt chính
trị mà còn thúc đẩy sự giao lưu văn hóa, phát triển kinh tế. Hiệp ước có ý
nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn an ninh của cả hai bên, duy trì hòa bình
khu vực Viễn Đông như một phần của thế giới, tăng cường tình hữu nghị giữa nhân
dân hai nước và thúc đẩy sự nghiệp xây dựng CNXH. Trên tinh thần chung quan hệ
Trung - Xô những năm 50 đã phát huy cao độ tinh thần hiệp ước, khi Mao chỉ ra
rằng “muốn cách mạng thì phải có Đảng cách mạng…..Đảng cộng sản Trung Quốc là
đảng được xây dựng và phát triển dựa theo khuôn mẫu của Đảng cộng sản Liên Xô”
[8; 150] và “đối với sự phát triển của CNXH ở Trung Quốc, khi bắt đầu xây dựng
một nhà nước mới, chúng ta cần sao chép Liên Xô như một con đường duy nhất” và
“trong khoảng thời gian 3 năm đầu tiên khôi phục đất nước sau giải phóng chúng
ta khá bối rối về sự phát triển, tuy kế hoạch 5 năm lần 1 chúng ta cũng chưa rõ
ràng về nó. Vì vậy về cơ bản chúng ta cần phải làm theo những gì Liên Xô đã
làm”.
Không đầy một năm sau, hiệp ước đã có cơ hội
phát huy tác dụng, khi Trung Quốc tham gia cuộc chiến tranh Triều Tiên. Dù chưa
kịp hồi sức sau cuộc nội chiến, Trung Quốc vẫn sẳn lòng chịu đựng những hi sinh
to lớn cho cuộc chiến này. Và cũng nhờ đó, Liên Xô, cũng như phương Tây, đã cảm
nhận được sức mạnh và tầm quan trọng của Trung Quốc trong phe XHCN. Chỉ hai
tuần sau khi Stalin qua đời (5-3-1953), một hiệp ước kinh tế đã được kí, theo
đó, Liên Xô giúp Trung Quốc xây mới và mở rộng, cải tạo 141 công trình công
nghiệp,gồm 50 công trình đã được đề cập trong hiệp định 14-2-1950 và 91 xí
nghiệp công nghiệp lớn mới bổ sung. Quy mô của dự án này “cho phép đưa nền
sản xuất của Trung Quốc vào cuối năm 1959 đạt mức của Liên Xô năm
1932” [3;114].
Những người kế vị Stalin đồng thời đối xử với
Trung Quốc như một đồng minh đích thực. Bản thông cáo chung được công bố vào
cuối chuyến viếng thăm của phái đoàn Liên Xô nhấn mạnh đến sự bình đẳng, tôn
trọng chủ quyền, tôn trọng lẫn nhau và tôn trọng sự toàn vẹn lãnh thổ và
chú ý làm rõ quyết định tham khảo ý kiến của nhau về mọi vấn đề liên quan đến quyền
lợi chung của cả hai nước. Do lúc này, vẫn còn thừa nhận vai trò lãnh đạo của
Liên Xô trong phe XHCN, Mao Trạch Đông hẳn không đòi hỏi gì hơn. Quan hệ Trung
- Xô chưa lúc nào tỏ ra vững chắc bằng những năm 1954 - 1957.
Tính cho đến năm 1959, Liên Xô giúp Trung Quốc
xây dựng 400 công trình công nghiệp, trong đó từ 250 đến 300 thuộc loại lớn,
10.800 chuyên gia kĩ thuật và cố vấn; Liên Xô cung cấp cho Trung Quốc 14.000
tập tài liệu kĩ thuật trị giá hàng tỉ dollar và bán cho Trung Quốc 4,7 tỉ rúp
trang bị… “Đây là sự chuyển nhượng kĩ thuật toàn diện nhất trong lịch sử
công nghiệp hiện đại” [3;116]. Đáng kẻ hơn cả ngày 15-10-1957, Liên Xô và
Trung Quốc đã kí một hiệp nghị bí mật, theo đó Liên Xô hứa sẽ cung cấp cho
Trung Quốc một mẫu bom nguyên tử và những số liệu kĩ thuật để chế tạo nó. Hiệp
nghị cho thấy Liên Xô đã coi Trung Quốc như là đồng minh đáng tin cậy thực sự.
Về phần mình, giới lãnh đạo Trung Quốc luôn sẵn sàng công nhận vị thế hàng đầu
của Liên Xô trong khối các nước XHCN.
1.2.2. Những bất đồng kín đáo (1956 - 1959)
Những bất đồng kín đáo giữa Liên Xô và Trung
Quốc được thể hiện qua một loạt biến cố diễn ra trong năm 1956, mà khởi đầu là
ngay trong Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô lần thứ XX (tháng 2-1956). Đại hội
được triệu tập từ sau cái chết của Stalin (5-3-1953), với báo cáo gửi đến Bộ
chính trị của Khrushev đã đưa ra một kế hoạch xây dựng kinh tế hết sức lớn lao
nhằm đuổi kịp và vượt Mỹ trong thời gian ngắn, khoảng mười lăm năm. Để có thể
dồn sức thực hiện kế hoạch to tát đó, Khrushev cho rằng cần có một nền hòa bình
vững chắc, mà trong điều kiện so sánh lực lượng lúc đó, không gì khác hơn là
hòa dịu Xô - Mỹ và cần tiến hành một cải cách trong nước [3;117]. Với luận điểm
đó, Khrusev đã dấy lên một cuộc tranh luận không chỉ trong nội bộ Đảng Cộng sản
Liên Xô mà còn trong toàn khối XHCN. Khrusev đã đánh giá lại vai trò quyền lực
của nhà nước Liên bang cùng một số vấn đề có liên quan, trong đó nội dung quan
trọng nhất là đánh giá lại vai trò của Stalin “làm thế nào Stalin đã tàn
phá nền dân chủ XHCN và đứng trên hệ thống XHCN”. Điều này đã phá vỡ hình ảnh
của Stalin trong mắt của những người, tổ chức, những nước theo mô hình XHCN
sùng bái ông. Nó mở ra phong trào “chống sùng bái cá nhân” trong tổ
chức Đảng và “chủ nghĩa xét lại”. Trong Đại hội, Khrusev còn nęu rõ
đường lối đối ngoại là “chung sống hòa bình” giữa các nước có chế độ
xã hội khác nhau. Phía Trung Quốc đã có những phản ứng mang tính nhận thức đối
với Đại hội XX của Đảng cộng sản Liên Xô, trong việc tán thành tệ sùng bái cá
nhân “Việc Đảng cộng sản Liên Xô dũng cảm phê bình những khuyết điểm của mình
chứng minh tính tự nguyên tắc cao của Đảng và sức sống vĩ đại của chủ nghĩa Mác
-Lênin…..cuộc đấu tranh chống sùng bái cá nhân tại đại hội….là một cuộc đấu
tranh vĩ đại, anh dũng…đã quét sạch những chướng ngại về tư tưởng trên con
đường đi lên tiến bộ. Đảng cộng sản Trung Quốc chào mừng những thắng lợi to lớn
đã giành được trong cuộc đấu tranh có ý nghĩa lịch sử mà Đảng cộng sản Liên Xô
tiến hành chống tệ sùng bái cá nhân” [16;41]. Đảng cộng sản Trung Quốc tán
thành một số khía cạnh trong bài phát biểu của Khrushev nhưng trong tư tưởng
ngoại giao chung sống hòa bình trước hết với Mỹ, Bắc Kinh không đồng nhất với
quan điểm này khi cho rằng “đế quốc Mỹ là nguồn gốc của chiến tranh và là kẻ
thù tàn ác nhất của nhân dân thế giới” [13;33,34], sự thỏa hiệp Xô - Mỹ sẽ đi
ngược lại với tư tưởng XHCN “Liên Xô chỉ đơn phương đưa ra quan điểm và áp đặt
các nước cùng tư tưởng theo hướng chủ ý của mình”, việc tham khảo ý kiến của
nhau phải là thật chứ không mang tính hình thức, rằng sự đoàn kết giữa các Đảng
cộng sản sẽ bị tổn hại nếu “Đảng này áp đặt quan điểm của mình lên Đảng khác”
[4;184]. Việc Khrushev đưa ra kế hoạch xây dựng kinh tế để vượt Mỹ trong khoảng
15 năm và nếu muốn thành công thì cần điều kiện hòa bình vững chắc, trước hết
giảm nhiệt chiến tranh lạnh với Mỹ. Đây là căn cứ để Trung Quốc lên tiếng cho
rằng Liên Xô chỉ nghĩ đến lợi ích quốc gia. Thực tế trong giai đoạn này quan hệ
Mỹ - Trung đang căng thẳng về vấn đề Đài Loan, nó liên quan đến độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia này. Các cuộc đàm phán về cắt
giảm vũ khí chiến lược giữa hai cực Xô - Mỹ cũng gây ra sự phản ứng từ Bắc
Kinh, đặc biệt việc phát triển vũ khí hạt nhân mà trước đó Liên Xô đồng ý hỗ
trợ công nghệ phát triển hạt nhân cho nước này. Tại hội nghị các Đảng cộng sản
và công nhân quốc tế diễn ra ở Matxcơva tháng 1-1957 Mao Trạch Đông đã tuyên bố
“trong cuộc chiến tranh hạt nhân thế giới nếu như một nữa loài người bị tiêu
diệt, vẫn còn lại một nữa thế nhưng chủ nghĩa đế quốc sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt
và trên thế giới chỉ còn CNXH, và sau nữa thế kỷ hoặc một thế kỷ dân số sẽ phát
triển thậm chí còn lớn hơn một nữa” [16;51]. Đây là luận điểm “gió Đông thổi
bạt gió Tây” mà Mao sử dụng để thay thế cho khẩu hiệu có tính giai cấp đấu
tranh giữa CNXH và chủ nghĩa đế quốc, qua đó thể hiện quan điểm của quốc gia
này trên diễn đàn các nước XHCN. Theo đó, tư tưởng xây dựng XHCN theo cách
riêng của Trung Quốc hình thành, ngay từ giữa những năm 50 Trung Quốc đã bắt
tay tìm kiếm đường lối xây dựng CNXH mang tính linh hoạt trong đường lối đối
nội, đối ngoại, giảm bớt sự “chỉ đạo” từ Liên Xô. Năm nguyên tắc
chung sống hòa bình mà Bắc Kinh đề xuất đã thể hiện rõ quan điểm này, trên cở
sở đó Bắc Kinh đã vận dụng tư tưởng “gậy ông đập lưng ông” đối với
Matxcơva trong vấn đề đối ngoại. Liên Xô thực hiện chính sách hòa hoãn với
phương Tây, chung sống hòa bình thì không có lí do gì giữa các nước XHCN không
chung sống hòa bình trên cở sở những nguyên tắc đó vì các nước XHCN đều là
những quốc gia có chủ quyền, độc lập đồng thời lại đoàn kết với nhau trong tinh
thần quốc tế vô sản và lý tưởng XHCN [8;336]. Trong thời gian tiến hành kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất, bên cạnh những kết quả đạt được, Trung Quốc cũng gặp
nhiều sai lầm trong phong trào “Trăm hoa đua nở, trăm nhà đua
tiếng” và “Đường lối ba ngọn cờ hồng” (1958) trong kế hoạch năm
năm lần thứ hai. Những diễn biến tại Bắc Kinh đã được báo cáo về Matxcơva trên
cơ sở đó “Khrushev và một số nhà lãnh đạo Xô Viết đã kín đáo phê phán công xã
nhân dân và Đại nhảy vọt” [3;120]. Đây chẳng khác nào sự vi phạm vào một trong
năm nguyên tắc hòa bình mà Trung Quốc đề xuất với khối XHCN.
Vào khoảng thời gian 1958 căng thẳng trong quan
hệ Trung - Xô trở nên rõ ràng trong những quan điểm khác nhau về một số vấn đề
liên quan đến chính sách đối ngoại của các bên. Đầu tiên là việc Trung Quốc
khởi động cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan lần thứ hai, từ ngày 23-8-1958 bằng
các đợt pháo kích vào đảo Kim Môn, Mã Tổ với tuyên bố: “đối với nhân dân
Trung Quốc bất cứ hiệp định nào kí kết giữa Mỹ và chính quyền Tưởng đều không
có cơ sở pháp lí”, lên án Washington là kẻ xâm lược nhưng điều quan trọng Bắc
Kinh muốn Matxcơva nhận thức lại quan điểm của nước này và chính sách chung
sống hòa bình của Liên Xô với phương Tây. Cuộc pháo kích này nhằm ý đồ, buộc
đội quân phòng vệ của Đài Loan phải đầu hàng mà không có sự phản ứng từ Mỹ, để
chứng tỏ cho Khrushev thấy quan tâm của Bắc Kinh, sự bất lực của Washington và
thái độ không thích đáng của Matxcơva. Ngày 7-9-1958 đại diện Matxcơva gửi đến
tổng thống Aixenhao lời cảnh báo để thực hiện đúng cam kết như trong hiệp ước
14-2-1950 với Bắc Kinh rằng nếu Mỹ thực hiện một cuộc tấn công chống lại Trung
Quốc đó sẽ là cuộc tấn công chống lại Liên Xô, và sẽ nhắc nhở nếu sử dụng bom
hạt nhân vào Trung Quốc, Liên Xô sẽ đáp trả để bào vệ đồng minh. Không có cuộc
đối đầu quân sự trực tiếp xảy ra, do vậy tuyên bố bảo vệ Trung Quốc của Liên Xô
trước đế quốc Mỹ đã bị các nhà lãnh đạo Bắc Kinh lên án đó chỉ là những thủ
đoạn tuyên truyền. Đường lối ngoại giao “nhất biên đảo” của Bắc Kinh
khoảng thập niên 60 đang chuyển dần sang “lưỡng biên phản” vì cho
rằng Xô, Mỹ đang liên kết với nhau để chống lại mình, mặc dù quyền lợi của hai
nước cơ bản là đối nghịch nhau.
1.3. Nhận xét về quan hệ Trung - Xô trước năm
1959
Như vậy, mối quan hệ nồng ấm Trung - Xô chỉ
khoảng 3 năm đầu khi hiệp ước hữu nghị được kí kết, từ sau cái chết của Stalin
xuất phát từ chiến lược ngoại giao nước lớn nên tình hữu nghị, hợp tác giữa hai
nước XHCN này bắt đầu có sự chia rẽ ngầm trong Đảng. Khi nhận định rằng lí do
quan trọng nhất là các nhà lãnh đạo Liên Xô muốn sử dụng Trung Quốc để duy trì
vị trí dẫn đầu trong hệ thống các nước XHCN; phong trào cộng sản quốc tế và khi
địa vị chính trị vững vàng nước này sẽ “cọ xát” mạnh với tư cách là
nước lớn, nếu một quốc gia XHCN nào đó “chệch hướng” theo “chỉ
đạo” của Matxcơva. Phía Bắc Kinh muốn có được viện trợ nhiều nhất từ Liên
Xô trong quá trình triển khai các kế hoạch năm năm, do vậy hợp tác với Liên Xô
lí do chính là kinh tế chứ không phải là chính trị chủ đạo. Điều này đã được
minh chứng bằng một loạt các viện trợ từ Liên Xô sang Trung Quốc, tính đến năm
1959 dựa trên kết quả hợp tác hai nước.
Những năm tháng nóng lạnh trong quan hệ giữa hai
nước trong khối XHCN, đã dẫn đến cuộc, xung đột biên giới Trung - Xô xảy ra. dù
trước đó cả Trung - Xô đều tuyên bố tình đoàn kết anh em đời đời không thể phá
vỡ. Ngay trong tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Mao Trạch
Đông cũng cho rằng cần thiết phải phát triển mối quan hệ đặt biệt với Matxcơva.
Trong khoảng thời gian 1949 - 1950 một liên minh chiến lược với Liên Xô đã đạt
được sau những nỗ lực của lãnh đạo Trung Quốc đánh dấu bằng hiệp ước 14-2-1950.
Nhưng sự biến chuyển của lịch sử không như hai nước dự kiến.
Chương 2. QUAN HỆ TRUNG QUỐC - LIÊN XÔ
GIAI ĐOẠN 1959 – 1979
2.1. Bối cảnh quốc tế giai
đoạn 1959 - 1979
Trong giai đoạn này, có nhiều thay đổi lớn xảy
ra trong lịch sử quan hệ ngoại giao thời hậu chiến thế giới. Cuộc đối đầu Đông
- Tây khung cơ bản của chính trị quốc tế đã được duy trì hơn ¼ thế kỉ đã có
những biến đổi ít nhất là vẻ bề ngoài, các nước hướng về việc xây dựng một trật
tự quốc tế mới đã và đang được hình thành. Thay đổi diễn tiến không chỉ trong
lĩnh vực chính trị mà còn kinh tế. Trong chính trị quốc tế rõ lên là sự phân
cực, Mỹ - Xô hai cực chi phối cục diện quan hệ quốc tế đang dần bị xói mòn bởi
các “lực lượng” mới nổi lên, nó được bắt đầu từ thập niên 70.
Sau khi kết thúc Cách mạng văn hóa, Trung Quốc
ra sức khắc phục hậu quả do cuộc cách mạng này gây ra đồng thời tăng cường hoạt
động ngoại giao, trước hết cải thiện quan hệ với phương Tây, luôn vận động để
được kết nạp vào Hội đồng Bảo An. Trong quan hệ với Mỹ (từ năm 1969) sự đối đầu
đã giảm giữa hai nước bởi những động thái tích cực của hai phía, mặc dù Washington
và Bắc Kinh chưa diễn ra các cấp cao nào để thỏa thuận, thiết lập quan hệ chính
thức, điều mà hai nước nổ lực đến tận năm 1979 mới chính thức đạt được. Dường
như cả Mỹ và Trung Quốc chưa bao giờ thỏa mãn được những điều kiện mà các bên
đưa ra trong đàm phán quan hệ, để đạt được mục tiêu chiến lược thì các nhân tố
ảnh hưởng đến mối quan hệ này chỉ tạm thời được gác lại và khi có cơ hội thì nó
lại những nguyên nhân gây ra tình trạng nóng, lạnh giữa Washington và Bắc Kinh.
Mối quan hệ Trung - Xô đóng băng sau các cuộc
đụng độ vũ trang dọc biên giới hai nước, và phải trải qua một quá trình đàm
phán vì những khác biệt trong quan điểm, đến thập niên 80 về cơ bản tình hình
biên giới cũng như những bất đồng trong quan hệ hai nước đã được giải quyết,
điều này không chỉ phù hợp với xu thế phát triển trong quan hệ quốc tế là hòa
bình, ổn định mà còn vì lợi ích chiến lược của cả hai.
Sự gia tăng vị thế quốc tế của Nhật Bản
trong thời gian này càng rõ nét, nước này trở thành một trong ba trung tâm kinh
tế - tài chính của thế giới tư bản khi đang trong giai đoạn phát triển thần kì,
mặt dù sau đó chịu sự tác động bởi khủng hoảng năng lượng năm 1973 nền kinh tế
nước này có những tác động nhất định nhưng điều này không ảnh hưởng đến việc
Nhật Bản gia tăng vai trò, vị thế trên chính trường quốc tế. Kinh tế Tây Âu bắt
đầu từ thập niên 70 đang phát triển sánh ngang với Mỹ và Liên Xô. Bên cạnh đó
sự mở rộng của cộng đồng Châu Âu tạo nên sự ổn định, phát triển cao hơn cho khu
vực này trên nhiều mặt, với nhiều nổ lực đã giảm bớt sự căng thẳng Đông - Tây,
thông qua các giải pháp về vấn đề Berlin (Đức), các hội nghị an ninh Châu Âu
hoạch định các kế hoạch giảm sự gia tăng quân sự không cần thiết. Đồng minh của
Mỹ ngày càng có tiếng nói độc lập hơn trong nhiều vấn đề quốc tế không phải
chịu ảnh hưởng hay sức ép nào từ bên ngoài.
Từ thập niên 1970 Châu Á cũng bị tác động theo
những chuyển biến trong quan hệ quốc tế. Sau chiến tranh Triều Tiên, hai miền
Nam - Bắc phát triển theo hai hướng khác nhau nhưng trong tình trạng luôn căng
thẳng, tuy vậy trong khoảng thời gian các nước lớn có những cuộc gặp nhau nhằm
giảm bớt căng thẳng thì hai miền cũng theo xu thế này tiến hành các cuộc tiếp
xúc, đối thoại, chẳng hạn đàm phán tìm kiếm người dân mất tích, thất lạc trong
chiến tranh. Cuộc chiến tranh ở Việt Nam cuối những năm 60 trong quá trình đàm
phán để tìm kiếm một giải pháp hòa bình nhưng những hoạt động quân sự của Mỹ và
đồng minh đã làm cho tiến trình đàm phán bị đình lại, đến mãi năm 1975 hòa bình
mới trở lại Đông Dương, cần phải nói thêm với việc Việt Nam thống nhất tổ quốc
đã giáng một đòn mạnh vào chính sách toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc, góp phần
ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì dân chủ, tự do và hòa bình cho các lực lượng tiến
bộ.
Các nước ASEAN theo đuổi lập trường “trung hòa”
và kêu gọi các quốc gia khác tôn trọng quan điểm này. Điều này cho thấy các
nước nhỏ đang muốn tìm kiếm và bảo đảm vị trí trong cuộc đồng quốc tế một cách
tự chủ, độc lập, không bị lệ thuộc, ảnh hưởng bởi cực nào của thế giới. Các khu
vực khác trên thế giới: Trung Đông, Châu Phi, Trung và Nam Mỹ cũng có những
biến đổi về kinh tế - chính trị - xã hội, mặc dù một số vấn đề xung đột biên
giới, chủng tộc luôn ảnh hưởng đến sự phát triển đất nước, khu vực. Nhìn chung,
đây là một lực lượng quan trọng trong “thế giới thứ ba” đang vươn lên
khẳng định tiếng nói độc lập trên các diễn đàn quốc tế.
Điều quan trọng là mối quan hệ Mỹ - Xô với những
biến đổi tiếp theo một cách đầy thăng trầm, mối quan hệ này biến đổi phù hợp
trước hết là vì lợi ích bản thân hai nước. Xu hướng hòa dịu trong quan hệ Đông
- Tây bắt đầu xuất hiện từ giữa những năm 50, sau một thời gian chững lại đến
giai đoạn này được khơi dậy. Cả Mỹ và Liên Xô xuất hiện không ít khó khăn để
duy trì thế cân bằng chiến lược, những khoản chi tiêu khổng lồ cho việc chạy
đua vũ trang đã khiến hai nước mất dần ưu thế cạnh tranh về kinh tế với các
nước khác. Do vậy, vấn đề đi đến thỏa thuận hạn chế vũ khí chiến lược là cách
để hai nước chú tâm phát triển hơn các vấn đề khác, đàm phán, cắt giảm chạy đua
vũ trang đã trở thành một trong những vấn đề trung tâm trong quan hệ hai nước.
Các cuộc gặp cấp cao giữa lãnh đạo hai nước luôn nhận được sự quan tâm lớn của
thế giới, sau nhiều lần gặp mặt hai nước đã đi đến kí kết nhiều hiệp định quan
trọng, như hội nghị cấp cao Xô -Mỹ tháng 5-1972 kí hiệp ước SALT “lần đầu tiên
thế cân bằng Xô - Mỹ được chính thức công khai thừa nhận” [6;23], góp phần đưa
thế giới đến gần hơn với “hòa bình”. Nhưng sự phức tạp, thăng trầm trong quan
hệ Mỹ - Xô khó đoán định được, bước sang cuối thập niên 70 đầu những năm 80 lại
xuất hiện những căng thẳng trong quan hệ hai nước, vượt khỏi khả năng khống chế
của cả hai siêu cường, Mỹ với cuộc khủng hoảng chính trị tại Iran (11-1979),
khó khăn trong nước; Liên Xô đưa quân vào Apganixtan gây nên sự phản đối mạnh mẽ
từ cộng đồng quốc tế (12-1979); khủng hoảng vấn đề Campuchia…..
Chiến tranh lạnh kết thúc đồng nghĩa với
việc kết thúc cuộc đối đầu Đông - Tây, dẫn đến sự thay đổi lớn trong quan hệ
quốc tế và chính “sự tương tác giữa các chủ thể trong quan hệ quốc tế là
nhân tố quyết định sự vận động thường xuyên của hệ thống quan hệ quốc tế”.
Như vậy, tình hình quốc tế giai đoạn 1959 - 1979
có những biến chuyển quan trọng, điều này ảnh hưởng mạnh đến quan hệ giữa Liên
Xô và Trung Quốc.
2.2. Quan hệ Trung Quốc - Liên Xô
thời kì sống gió và chia rẽ (1959 - 1979)
2.2.1. Quan
hệ Trung Quốc - Liên Xô giai đoạn 1959 - 1969
Sau mười năm xây dựng mối quan hệ đồng minh
chiến lược, đến cuối những năm 1959 đầu những năm 1960, quan hệ giữa hai nước
từng bước rạn nứt và dần đi đến chỗ đoạn tuyệt trong quan hệ ngoại giao. Mâu
thuẫn ngày một tăng với Matxcơva đã được phản ánh rõ nét trong cuộc khủng hoảng
chính trị tại Bắc Kinh vào mùa hè năm 1959. Mao Trạch Đông, người đấu tranh cho
bước đại nhảy vọt, rất phiền muộn vì sự thất bại của nó và buộc phải chấp nhận
lời khiển trách về điều đó. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc Bành Đức Hoài,
người vừa trở về sau chuyến viếng tham Liên Xô, lên tiếng mạnh mẽ chống lại
chính sách của Mao và ủng hộ việc duy trì “kiểu mẫu Xô Viết” mà ông
cho là cần thiết cho công cuộc hiện đại hóa quân sự Trung Quốc. Sự kiện này làm
Mao rất tức giận, ông lãnh đạo một cuộc đấu tranh chống lại Bành, buộc tôi Bành
Đức Hoài phản bội. Ngay sau đó, Bành Đức Hoài bị cách chức Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng và Lâm Bưu là người được chọn thay thế. Vừa mới cầm quyền, Lâm Bưu ngay
lập tức tuyên bố, Trung Quốc không cần sự giúp đỡ về kĩ thuật và quân sự của
Liên Xô trong lĩnh vực quốc phòng.
Năm 1959, Khrushev sang tham Mỹ, hội đàm với
tổng thống Mỹ Aixenhao ở trại David, khi trở về đã đến Bắc Kinh và không quên
nhắc nhở các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải tránh đối đầu với Mỹ về vấn đề Đài
Loan. Điều này càng làm cho Trung Quốc nghi ngờ Khrushev thỏa hiệp với Mỹ bất
chấp lợi ích của Trung Quốc.
Trong đại hội XXI, các Đảng cộng Sản đầu năm
1959, Khrushev đề nghị thành lập một vùng phi hạt nhân ở Viễn Đông - Thái Bình
Dương nhưng đã bị Trung Quốc bác bỏ. Ngày 20-6, Liên Xô thông báo với Trung
Quốc do sự thỏa thuận giữa nước này với Mỹ về việc hạn chế cấm thử nghiệm vũ
khí hạt nhân, nên Matxcơva sẽ không cung cấp thêm cho Bắc Kinh bất kì sự hỗ trợ
nào về công nghệ hạt nhân, do đó thỏa thuận kí kết năm 1957 sẽ không còn hiệu
lực. Với việc chính sách hỗ trợ hạt nhân bị “đảo ngược” đã góp phần
gia tăng thêm căng thẳng trong quan hệ hai nước, mãi sau này trong báo cáo
tháng 8-1963 Trung Quốc đã chỉ trích “đấy là quà tặng mà các nhà lãnh đạo Liên
Xô dành cho Aixenhao trong chiến thăm đến Hoa Kì tháng 9-1959”, vì chuyến thăm
Mỹ, cả hai nước đã có những thỏa thuận quan trong về một số vấn đề vốn trước
đây khác nhau về quan điểm.
Một vấn đề làm cho mâu thuẫn Trung - Xô là thái
độ của Liên Xô đối với sự tranh chấp giữa Trung Quốc và Ấn Độ về vấn đề Tây
Tạng và biên giới lãnh thổ giữa hai nước. Liên Xô đã công bố lời giải thích của
cả hai chính phủ và đề nghị làm trung gian hòa giải. Ngày 29-9-1959, TASS ra
thông báo bày tỏ ý kiến rằng cuộc đụng độ giữa Trung Quốc và Ấn Độ đã ảnh hưởng
xấu đến lí tưởng chung sống hòa bình. Bản thông báo viết tiếp: “Không thể
không bày tỏ sự hối tiếc về biến cố đang diễn ra trên biên giới Trung - Ấn.
Liên Xô duy trì các mối quan hệ thân hữu với cả Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa lẫn
với Ấn Độ…”. Bản thông báo kết thúc bằng câu: “Giới lãnh đạo Xô Viết tin
tưởng rằng hai chính phủ sẽ giải quyết những hiểu lầm theo cách có tính đến
quyền lợi của nhau và theo tinh thần của quan hệ hữu nghị truyền thống giữa
nhân dân Trung Quốc và Ấn Độ” [3;121].
Đây là lần đầu tiên kể từ khi Hiệp ước liên minh
Trung - Xô được kí kết, Liên Xô đã không chọn đứng về phía Trung Quốc trong
cuộc xung đột quốc tế có liên quan đến nước này.
Phản ứng của Liên Xô đã khiến Trung Quốc rất bực
tức. Với tư cách là bạn đồng minh của Liên Xô, giới lãnh đạo Trung Quốc trông
chờ sự tự động tán thành của Matxcơva đối với cách biện giải của họ. Nhưng các
chuyên gia Xô Viết đã không tin vào sự đúng đắn của Trung Quốc, và chính phủ Xô
Viết thấy nên có thái độ trung lập. Hơn thế nữa, ngày 12-9, Liên Xô đã kí một
hiệp ước cung cấp cho Ấn Độ một khoản tín dụng trị giá 1,5 tỉ rúp (lớn hơn bất
cứ khoản viện trợ nào của Liên Xô cấp cho Trung Quốc trước đó) để thực hiện kế
hoạch 5 năm lần thứ V của Ấn Độ. Trong thời gian chiến tranh Trung - Ấn,
Khrushev đã chỉ trích Trung Quốc tại hội nghị tối cao Liên Xô, ông còn hùng hổ
hỏi: “tại sao Trung Quốc không đi thu hồi Đài Loan, Ma Cao mà lại đi gây
rắc rối với Ấn Độ” [9;59].
Đầu những năm 60, sự chia rẽ trở nên rõ ràng và
thực tế, bất đồng giữa hai Đảng chính thức được công khai trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Tháng 1-1960, tạp chí Hồng Kỳ của Trung Quốc đăng
bài “Chủ nghĩa Lênin muôn năm” là sự kiện đầu tiên công khai hóa sự
bất ổn trong quan hệ hai nước. Quan hệ Trung - Xô tiếp tục căng thẳng khi một
quyết định được cho là đơn phương gây ra“cú sốc” cho nền kinh tế Trung Quốc khi
nước này đang ra sức khắc phục khó khăn từ phong trào Đại nhảy vọt, tháng
7-1960 Liên Xô quyết định thu hồi tất các hỗ trợ về kinh tế, chuyên gia kĩ
thuật đang làm việc tại Trung Quốc: khoảng 1390 chuyên gia, 343 hợp đồng liên
quan đến hỗ trợ kĩ thuật, 275 dự án hợp tác khoa học kĩ thuật không được hoàn
thành sau đại hội III Đảng cộng sản Rumani tháng 6-1960. Như vậy sự bất đồng về
hình thái ý thức giữa hai Đảng đã mở rộng sang quan hệ cấp nhà nước.
Đến năm 1962, mâu thuẫn giữa hai nước càng xấu
thêm bởi cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba(tháng 10-1962). Việc Liên Xô rút
tên lửa ra khỏi Cuba được Trung Quốc xem là sự đầu hàng trước hành
động xâm lược của đế quốc [14;161]. Những bất đồng giữa hai Đảng ngày càng lớn
và sự đấu tranh gay gắt giữa hai nước không ngừng tăng lên. Những cuộc tranh
cãi bằng ngôn từ giữa hai bên không còn mang tính chất của một cuộc luận chiến
nữa, mà mau chóng biến thành hành động đã kích lẫn nhau. Tháng 12-1962, tại Hội
nghị Xô Viết Tối cao và trước sự có mặt của Tito, Khrushev tố cáo giới lãnh đạo
bắc Kinh đã đễ “một số lãnh thổ Trung Quốc tiếp tục chịu sự chiếm đóng của nước
ngoài”.Ông còn khẳng định “cuộc khủng hoảng Cuba đã chứng tỏ rằng
hiện nay chủ nghĩa giáo điều là nguy cơ chủ yếu”. Còn Mao Trạch Đông nhận
xét trong nội bộ: “chuyên chính ở Liên Xô hiện nay là chuyên chính tư sản,
chuyên chính đại tư sản, chuyên chính của phát xít Đức, chuyên chính kiểu
Hitler” [3;125].
Bước sang năm 1963, cuộc luận chiến đã bùng ra
công khai trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng. Từ cuối tháng
12-1962 đến đầu tháng 3-1963, Nhân dân Nhật báo công bố bốn bài chỉ
trích Khrushev. Ông này phản ứng lại bằng cuộc vận động họp hội nghị quốc tế
khai trừ Đảng Cộng sản Trung Quốc. Để trả đũa, Trung Quốc cũng tích cực không
kém trong nỗ lực tổ chức hội nghị gồm một số Đảng Cộng sản Châu Á và hai Đảng
Cộng Sản Đông Âu (Albania và Romania) để thành lập một phong trào Cộng sản quốc
tế do Trung Quốc lãnh đạo. Trước diễn biến ngày càng xấu trên, đã nảy sinh sức
ép đòi giới lãnh đạo hai Đảng có thế lực nhất trên thế giới tiến hành hội đàm.
Ngày 21-2-1963, TW Đảng Cộng sản Liên Xô đề nghị đình chỉ công khai và tiến
hành hội đàm ở cấp “thượng đỉnh” hay “cấp cao” giữa hai Đảng. Sau cuộc gặp gỡ
giữa những nhà lãnh đạo hai Đảng ở Matxcơva (từ ngày 5 đến ngày 20-7-1963)
trong bầu không khí căng thẳng, bế tắc, cuộc chiến về chính trị giữa hai
nước chính thức bất đầu, công kích lẫn nhau thông qua thư từ, báo chí;
chia rẽ Đảng phái, chống đối lẫn nhau. Trong bức thư ngày 30-3-1963, Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản (BCHTWĐCS) Liên Xô đãlên án BCHTWĐCS Trung Quốc
có những đã kích không có căn cứ đối với BCHTWĐCS Liên Xô.Ngay sau đó, ngày
14-6-1963, BCHTWĐCS Trung Quốc gửi thư phản đối Liên Xô và tiếp tục đưa ra
những lời lên án Liên Xô, về việc Liên Xô yêu cầu Trung Quốc rút năm nhân viên
của Đại sứ quán Trung Quốc tại Liên Xô và nghiên cứu sinh của Trung Quốc ở Liên
Xô về nước. Trung Quốc khẳng định: Liên Xô tiếp tục làm cho mối quan hệ
hai bên xấu đi nghiêm trọng, rằng Liên Xô là “Chủ nghĩa xét lại”, “chủ nghĩa
bành chướng bá quyền” [13;34]. Tiếp đến, tháng 8-1963, Liên Xô - Mỹ -
Anh đã kí kết một “Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân”, đây được xem là một thành
tựu lớn trong nỗ lực giải trừ vũ khí hạt nhân, mà Khrushev đã bỏ vào đó không
ít công sức và thời gian. Hiệp ước này đối với Trung Quốc là một sự hủy hoại
lớn, đánh dấu việc Trung Quốc bị ngăn cản bởi chính các đồng chí Cộng sản để
ủng hộ thế giới tư bản [14;161]. Nó có nghĩa là còn nhiều hơn sự cô lập về
ngoại giao, là sự cô lập chiến lược. Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc xem
hiệp ước đó chỉ là “một trò bịp bợm vĩ đại, làm mê mẫn nhân dân toàn thế giới
và… hoàn toàn đi ngược lại nguyện vọng của nhân dân yêu chuộng hòa bình ở tất
cả các nước. Không thể hình dung được rằng Chính phủ Trung Quốc sẽ tham gia trò
bịp bợm này…”.Đánh giá này đã đưa Bắc Kinh đến kết luận sau: “những sự kiện
không thể bác bỏ được đã cho thấy rằng chính sách mà Chính phủ Xô Viết đang
tiến hành là chính sách liên minh với lực lượng chiến tranh chống lại lực lượn
hòa bình, liên minh với CNĐQ để chống lại CNXH, liên minh với Mỹ để chống Trung
Quốc, liên minh với bọn phản động các nước đấu tranh chống nhân dân toàn thế
giới” [3;127].
Cùng với sự bất đồng về chính trị giữa hai nước
ngày càng tăng thì vấn đề biên giới cũng trở nên ngày càng căng thẳng. Cuộc đàm
phán thứ nhất về biên giới Trung - Xô được tiến hành từ tháng 2 đến tháng
7-1964, nhưng hai bên không kí được hiệp định. Trung Quốc đưa ra những yêu sách
đòi Liên Xô trước hết phải công nhận sự bất công của hiệp ước Nga - Hoa kí
trước đó về biên giới nhằm dùng lý lẽ đó làm cơ sở đễ giải quyết vấn đề
biên giới bằng thương lượng. Còn lập trường của Liên Xô là sẽ xác định lại
một cách cụ thể đường biên giới ở những đoạn nhất định, lấy những văn kiện
hiện hữu và những điều đã được kí kết giữa Nga và Trung Quốc trước đó làm cơ
sở vì việc phân định đường biên giới Nga - Hoa đã được hơn một trăm năm và
trong thời gian đó có một số vùng đã thay đổi, nhiều nơi mốc biên giới cũ không
còn nữa. Sau cuộc đàm phán thứ nhất không thành, vết rạn nứt trong quan hệ Liên
Xô - Trung Quốc ngày càng lớn, dòng chảy trong quan hệ Liên Xô - Trung Quốc đã
thực sự tắc nghẽn.
Đến tháng 9-1964, Trung Quốc lại yêu cầu xét lại
các vùng lãnh thổ biên giới hai nước, nhưng các cuộc đàm phán diễn ra đều hoàn
toàn bế tắc vì lập trường hai nước không thay đổi. Vấn đề then chốt làm cho các
cuộc đàm phán Trung - Xô bi bế tắc vẫn là những yêu sách của Bắc Kinh về lãnh
thổ đối với Liên Xô. Sự bế tắc trong đàm phán đã đẩy quan hệ Trung - Xô đến tột
cùng căng thẳng và kết quả tất yếu là “chiến tranh chính trị” được
thay bằng “ chiến tranh vũ trang” [13;36].
Sau khi ban lãnh đạo mới của Liên Xô được bầu ra
tại hội nghị BCHTWĐCS Liên Xô (tháng 10-1964), quan hệ giữa hai nước vẫn tiếp
diễn theo chiều hướng xấu đi. Trong cuộc tiếp xúc với thủ tướng Liên Xô Kosygin
tháng 2-1965, Mao Trạch Đông tuyên bố Bắc Kinh sẽ tiếp tục “cuộc chiến
tranh bằng giấy” chống Liên Xô. Về phần mình, tháng 4-1966, chủ tịch Xô
Viết tối cao Podgorniy tuyên bố các đường biên giới hiện tồn của Liên Xô là bất
khả xâm phạm [3;128].
Cuộc tấn công của Mao Trạch Đông vào Liên Xô lên
đến đỉnh điểm vào mùa hè năm 1966 khi ông ta tiến hành một cuộc Đại Cách mạng
Văn hóa, một chiến dịch được xây dựng để tiếp thêm sinh khí cho cách mạng Trung
Quốc. Chương trình chính trị này chứa đựng mục đích chống lại Liên Xô rất mạnh
mẽ, Mao Trạch Đông kêu gọi người Trung Quốc thanh trừ những nhà lãnh đạo mà ông
cho rằng đã cố gắng thiết lập “Chủ nghĩa Cộng sản kiểu Xô
Viết” ở Trung Quốc. Trung Quốc cũng tăng cường đả kích Liên Xô và tìm cách
li gián Liên Xô với các nước XHCN khác. Năm 1968, khi nổ ra sự kiện “mùa
xuân Prague”, Liên xô đưa quân vào Tiệp Khắc, Trung Quốc cùng Albania Romania
lên án đó là “hành động xâm lược đế quốc chủ nghĩa” và gọi Liên Xô là
“Đế quốc xã hội”. Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ IX họp tháng 4-1969,
xác định Liên Xô là kẻ thù và chính thức ghi điều này vào cương lĩnh chính trị.
Sự căng thẳng giữa hai cường quốc Cộng sản ngày
càng tăng lên về phương diện biên giới lãnh thổ. Vào tháng 2-1969, cuộc chạm
trán giữa quân đội Trung Quốc và Liên Xô bất thình lình nổ ra trên đảo Damansky
(Trung Quốc gọi là đảo Trân Bảo) trên sông Ussuri, khi một số lính biên phòng
Trung Quốc cố tìm cách đổ bộ lên đây. Nhiều nhà phân tích thời cuộc quốc tế cho
rằng những người lãnh đạo Bắc Kinh mà giờ đây chịu sự chi phối gần như hoàn
toàn của Mao Trạch Đông, đã cố tình làm to chuyện “mối đe dọa Liên
Xô” để huy động sự ủng hộ trong nước trước Đại hội IX diễn ra trong tháng
4-1969. Đại hội đã đưa Liên Xô lên hàng kẻ thù số một của Trung Quốc, biến vấn
đề chống Liên Xô thành quốc sách và đưa nó vào cương lĩnh chính Trị Đảng Cộng
sản Trung Quốc. Sau khi Trung Quốc phát động cuộc tấn công thì Liên Xô phản
công lại bằng pháo binh, xe tăng máy bay, đẩy lui quân Trung Quốc. Kết quả,
phía Trung Quốc có khoảng 800 binh lính chết so với 50 binh lính Liên Xô. Mặc
dù việc đình chiến được lên kế hoạch, nhưng chiến tranh biên giới này vẫn
kéo dài đến hết năm. Một cuộc chiến tranh toàn diện giữa Trung Quốc và Liên Xô
dường như sắp diễn ra. Trong hoàn cảnh này, các nhà lãnh đạo ở Bắc Kinh bắt đầu
xem xét việc chấm dứt tình trạng cô lập ngoại giao và cải thiện mối quan
hệ của họ với Mỹ [14;163].
Chiều hướng quan hệ ngày càng xuống thấp, đầu
năm 1969 từ sự tranh chấp ý thức hệ đã dẫn đến đối đầu quân sự trực tiếp, Liên
Xô loan tin sẽ dùng vũ khí hạt nhân để tấn công Trung Quốc, ngày 28-8-1969, Đại
sừ Liên Xô tai Mỹ Đôbrưnin nhận được mật lệnh của Brezhnev: “vì lợi ích chiến
lược chung của ta và Mỹ, đại bản doanh quân ta chuẩn bị đánh vào những mục tiêu
quân sự quan trọng của Trung Quốc theo kiểu “phẩu thuật ngoại khoa”, nhằm loại
bỏ vũ khí hạt nhân của Trung Quốc… chúng ta chỉ công kích những mục tiêu quân
sự, chắc chắn sẽ không làm hại đến dân thường; năng lượng mà chúng ta giải
phóng sẽ khống chế ở một giới hạn nhất định, không gây ô nhiễm cho bầu khí
quyển và cũng không ảnh hưởng nhiều đến sự cân bằng sinh thái của trái đất”
[8;579]. Nhiều quan sát viên đã tiên đoán chiến tranh: cựu nhà báo
Mỹ Harrison Salisbury đã
xuất bản một cuốn sách có tên “Chiến
tranh sắp tới giữa Nga và Trung Quốc” và trong tháng 8 năm 1969, các
nguồn tin Liên Xô có gợi ý đến một cuộc tấn công Lop Nor (La
Bố Bạc) bằng vũ khí nguyên tử. Các tài liệu Liên Xô từ mùa hè năm 1969 cho
thấy rằng Liên Xô có các kế hoạch chi tiết cho một cuộc tấn công nguyên tử vào
Trung Quốc hơn là một cuộc tấn công nguyên tử vào Hoa Kỳ. ngày 16-9-1969 tại
London, Victor Louis nổi tiếng như một đặt vụ có thế lực của KGB, cảnh báo
trong một bài luận rằng: “tên lửa hạt nhân của Nga đang nhắm vào các phương
tiện hạt nhân của Trung Quốc” và rằng “chỉ huy cấp cao của Liên Xô
thích sử dụng tên lửa đối phó với sức người”. Ông nói thêm rằng
Matxcơva đã có một “kế hoạch triển khai cuộc không kích vào Lop Nor,
trung tâm hạt nhân của Trung Quốc” và rằng “liệu Liên Xô dám tấn công
Lop Nor hay không là một câu hỏi chiến lược và vì vậy thế giới chỉ có thể học
được điều này sau khi nó kết thúc”[15;128,129].
Mỹ hiểu rằng bài viết này là thăm dò phản ứng của Mỹ, cũng là cảnh cáo Trung
Quốc.
Sự đe dọa là quá rõ ràng và nguy hiểm, nó có vẽ
là lời cảnh cáo chính thức tứ phía Matxcơva. Trung Quốc ra sức phát động
chiến dịch toàn quốc nhằm chống lại cuộc xâm lược từ điện Kremlin. Quyết sách
của Mao Trạch Đông là: căn cứ tên lửa đạn đạo vào trạng thái sẵn sàng chiến
đấu, mở thông tất cả các trạm dẫn mặt đất. Mỹ cũng tỏ thái độ với Liên Xô, tổng
thống Nixon kí mật lệnh: “một khi Liên Xô có một tên lửa tầm trung rời bệ
phóng, Mỹ sẽ thực hiện kế hoạch đánh trả, đánh đòn hạt nhân vào hơn 130 thành
phố và cơ sở quân sự của Liên Xô” [9;67]. Điều làm cho Liên Xô hoàn toàn
không nghĩ tới là ngày 23, ngày 29-9-1969, Trung Quốc đã lần lược cho nổ phân
rã hạt nhân trong lòng đất đương lượng 20.000 đến 25.000 tấn, và cho nổ bom H,
loại máy bay oanh tạc ném xuống, đương lượng 3 triệu tấn. Thông tấn xã
Associated Press - AP bình luận: “hai lần thí nghiệm vũ khí hạt nhân gần đây
của Trung Quốc,không để giành lấy một thành quả nào đó, mà là một loại trắc
nghiệm trước cuộc chiến” [9;68].
Như vậy mốc năm 1969, đánh dấu sự thay đổi hoàn
toàn quan hệ Trung - Xô, từ đồng minh chiến lược sang đối đầu bằng các cuộc
xung đột vũ trang, đẩy hay nước sang hai chuyến tuyến hoàn toàn đối đầu và thù
địch với nhau. Cuộc chiến tranh lạnh vẫn hiện hữu với hai cực và trong mỗi cực
lại có chia rẽ, điều này sẽ là cơ hội cho cực còn lại lợi dụng những bất đồng
trong cuộc chiến lãnh đạo thế giới, khẳng định tính ưu trội của hệ tư tưởng mà
nước đó đang đi theo. Matxcơva chính thức trở thành một trong những yếu tố đưa
Mỹ - Trung xích lại gần nhau, điều này trước hết giúp thúc đẩy một sự cân bằng
quyền lực có lợi cho Mỹ ở Đông Á.
2.2.2. Quan hệ Trung
Quốc - Liên Xô giai đoạn 1969 - 1979
Thật ra, trước khi quan hệ giữa hai nước thoái
hóa đến mức xem nhau như kẻ thù, cả hai đã cố gắng tổ chức những cuộc đàm phán
nhằm cứu vãn những gì còn có thể cứu vãn được. sau các cuộc đụng độ năm 1969,
dường như cả hai phía đều rút lại tránh rơi vào bờ vực chiến tranh. Ngày
11-9-1969, tại Bắc Kinh đã diễn ra cuộc gặp gỡ bí mật giữa chủ tịch Hội đồng bộ
trưởng Liên Xô Kosygin và thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai. Tuy Không có một
thỏa thuận nào được đạt đến nhưng các cuộc gặp gỡ đã phục hồi lại một sự tối
thiểu về liên lạc ngoại giao và hai bên quyết định đưa ra các biện pháp nhằm
bình thường hóa tình hình ở biên giới, bổ nhiệm đại sứ ở cả hai thủ đô.
Ngày 20-10-1969, ở Bắc Kinh bắt đầu diễn ra các
cuộc đàm phán ở cấp thứ trưởng ngoại giao về biên giới. Nhưng chúng mau chóng
trở thành diễn đàn để cả hai có dịp trình bày quan điểm, lập trường của mình.
Trong hoàn cảnh như vậy, ảnh hưởng của chúng đến quan hệ chính trị và ngoại
giao giữa hai nước tất nhiên là không đáng kể. Quan hệ giữa hai nước cứ căng
thẳng dần theo số lượng quân lính và trang thiết bị quân sự mà cả hai nỗ lực
dồn về vùng biên giới của nhau [14;163,164].
Thập niên 70, sự thù nghịch Trung - Xô cũng lan
đến Châu Phi và Trung Đông nơi mà mỗi thế lực Cộng sản ủng hộ và tài trợ những
Đảng phái, phong trào, và quốc gia khác nhau. Điều này đã châm ngòi cho các
cuộc chiến tranh giữa Ethiopia và Somalia, các cuộc nội chiến tại Zimbabwe,
Angola và Mozambique, và sự thù nghịch giữa các nhóm cực đoan người Palestine
khác nhau. Không như Liên Xô, Trung Quốc thực Sự đã không đưa quân đến bất cứ
điểm nóng nào vừa kể ở trên, nhưng sự can thiệp có tính cạnh tranh của họ đã
tạo nên và kéo dài bất ổn.
Sự đối đầu giữa hai nước xã hội chủ nghĩa lớn
nhất ở thời điểm này là mong chờ của Mỹ, là cơ hội vàng để Mỹ kéo Trung Quốc về
phía mình, tăng thêm đồng minh và sức mạnh để chống Liên Xô. Về phía Trung Quốc
với tư tưởng “kẻ thù của kẻ thù là bạn”, Trung Quốc đã nhanh chóng ngã về
phía Mỹ, chấm dứt thời kì thực hiện chính sách đối ngoại “giương cung bắn
cả hai phía” của những năm 1960, chuyển hướng sang thực hiện chính sách
đối ngoại “hợp tung” bắt tay với Mỹ, dựa vào Mỹ để phát triển và
chống Liên Xô [13;37].
Mốc đánh dấu việc Trung Quốc hoàn toàn ngả về
phía Mỹ, quay lưng lại với Liên Xô là tháng 2-1972, sau chuyến viếng thăm Trung
Quốc của tổng thống Nixon, hai bên đã ra “Thông cáo Thượng Hải”. Thông cáo
Thượng Hải đã trở thành sợ dây ràng buộc Trung Quốc và Mỹ vào một mối quan hệ
“Đồng minh” mới: cùng chống “Chủ nghĩa bá quyền” Liên Xô [13;37].
Sau Thông cáo Thượng Hải, quan hệ Mỹ - Trung
nhanh chóng phát triển. Trục “liên hoành” Mỹ - Trung đã tạo điều kiện
cho cả Mỹ và Trung Quốc đẩy mạnh các hoạt động chống Liên Xô: Mỹ đẩy mạnh chạy
đua vũ trang, đẩy mạnh cuộc chiến tranh ở Đông Dương để thủ tiêu chủ nghĩa Cộng
sản; Trung Quốc tuyên bố không gia hạn “Hiệp ước đồng minh Trung -
Xô” ; ủng hộ việc duy trì “Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật” ở Châu Á
- Thái Bình Dương; Trung Quốc tán thành sự có mặt của Mỹ ở Đông Nam Á và đặt
quan hệ với NATO [13;37].
Vào năm 1970, Mao nhận thấy rằng ông không thể
đối đầu một lúc với cả Liên Xô và Hoa Kỳ và ngăn chặn những bất ổn trong nước.
Trong năm đó, mặc dù sự thật là Chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn cao điểm
và thái độ chống Mỹ của Trung Quốc đang ở đỉnh cao, Mao đã quyết định rằng Liên
Xô là một mối đe dọa lớn nhất vì vị trí địa lý của nó ở ngay bên cạnh Trung
Quốc, ông ta muốn tìm một sự hòa giải với Hoa Kỳ để đương đầu với Liên Xô.
Tháng 7 năm 1971, Henry
Kissinger bí mật viếng thăm Bắc Kinh và dọn đường cho Tổng thống Hoa Kỳ Richard
Nixon sang thăm Trung Quốc tháng
2 năm 1972. Mặc dù Liên Xô lúc đầu rất giận dữ, chẳng bao lâu sau đó họ cũng tổ
chức một cuộc họp thượng đỉnh riêng với Nixon, như thế tạo ra một quan hệ tay
ba giữa Washington, Bắc Kinh, và Matxcơva. Việc này kết thúc thời kỳ đối đầu
tồi tệ nhất giữa Liên Xô và Trung Quốc.
Đầu năm 1971, Liên Xô đề nghị Trung Quốc ký Hiệp
ước không sử dụng vũ lực trong quan hệ; năm 1973 Liên Xô lại kiến nghị ký hiệp
ước không tấn công lẫn nhau giữa hai nước, nhưng Trung Quốc đã bác bỏ hai yêu
cầu trên của Liên Xô; thậm chí các nhà lãnh đạo Trung Quốc còn kêu gọi thành
lập mặt trận toàn thế giới để chống Liên Xô, chống “Chủ nghĩa bá quyền thế
giới”… Thực chất cả Mỹ và Trung Quốc điều muốn lợi dụng nhau để đạt được
mục đích của mình, còn quan hệ Trung - Xô bị đẩy vào tình trạng không chỉ căng
thẳng mà còn là thù địch suốt thậm kỉ 70 của thế kỉ XX [13;37].
Sự rời khỏi quyền lực của Lâm Bưu năm 1971 đánh dấu hồi
kết thúc giai đoạn cực độ nhất của cuộc Cách mạng Văn hoá và từ đó trở đi cho đến
khi Mao mất vào năm 1976, có một sự trở lại dần dần chế độ cộng sản bình thường
tại Trung Quốc. Nó kết thúc tình trạng đối đầu quân sự với Liên Xô nhưng không
đưa đến bất cứ sự tan băng nào trong các quan hệ chính trị. Dù vậy, việc tăng
cường quân sự của Liên Xô trên biên giới với Trung Quốc vẫn tiếp tục: năm 1973,
gần như Liên Xô có gấp đôi quân số của mình hiện diện tại biên giới so với năm
1969. Trung Quốc tiếp tục lên án “chủ nghĩa đế quốc xã hội Xô
Viết” và tố cáo Liên Xô là kẻ thù của Cách mạng Thế giới. Mặc
dù chính Trung Quốc đã ngừng hỗ trợ trực tiếp cho các nhóm cách mạng tại những
quốc gia khác sau năm 1972, và ủng hộ cho một cuộc chấm dứt Chiến tranh Việt Nam trong thương thuyết
năm 1973.
Quan hệ Trung - Xô căng thẳng bao nhiêu thì quan
hệ Trung - Mỹ càng phát triển bấy nhiêu. Từ tháng 8-1973, sau Đại hội X Đảng
Cộng sản Trung Quốc, chủ trương chống Liên Xô của đường lối đối ngoại Bắc Kinh
đã được xác nhận về mặt pháp lý. Trung Quốc chính thức khẳng định có “mối
đe dọa từ phía Liên Xô” và khả năng “xảy ra một cuộc tấn công bất ngờ
từ Liên Xô”. Sau đại hội, năm 1974 chủ tịch Mao Trạch Đông đã đưa ra và nhấn
mạnh học thuyết “Ba thế giới”, Liên Xô bị xếp vào thế giới thứ nhất đứng
chung hàng với Mỹ, và do đó là kẻ thù của thế giới thứ ba, mà trong đó Trung Quốc
là một thành viên. Chưa hết, trong hai siêu cường, Liên Xô là kẻ nguy hiểm hơn
cả khi đang theo đuổi chính sách “bá quyền”, và cũng bởi vì thế lực Mỹ
đang trên đà xuống dốc và bản thân nước này đang là đối tượng của chính sách
bành trướng Xô Viết. Tại kỳ họp quốc hội tháng 1-1975, đường lối chống Xô Viết
được nâng lên hàng quốc sách khi nó được đưa vào bản hiến pháp mới của Trung
Quốc. Có thể nhận xét một điều chủ thuyết Ba thế giới là một chủ thuyết
mang tính pháp lí, “bình phong” liên Mỹ để chống lại Liên Xô. Với những
tuyên ngôn và biện pháp hành động cụ thể đã góp phần đưa quan hệ Trung - Xô
xuống thấp hơn từ khi xung đột, mâu thuẫn công khai giữa hai nước khởi phát.
Trước tình hình đó, nếu trong những năm nửa cuối
thập niên 60 của thế kỉ XX, Liên Xô thị uy sức mạnh ở Tiệp Khắc và biên giới
Trung - Xô thì sang những năm 70 của thế kỉ XX, Liên Xô bắt đầu thị uy
sức mạnh ở Đông Dương. Bên cạnh đó, Liên Xô còn coi thường việc Trung Quốc
chống “Chủ nghĩa bá quyền”, cuối năm 1979 Liên Xô đã huy động hàng vạn
quân tiến vào Apganistan, tạo ảnh hưởng trực tiếp đến Pakisstan và Trung Quốc.
Ngoài ra, Liên Xô còn liên minh với Ấn Độ để khống chế Trung Quốc từ phía Tây.
Trung Quốc bị đẩy vào tình thế phải chịu sức ép ở suốt dọc tuyến biên giới
Đông Nam và Tây Nam, khiến cho toàn bộ tuyến biên giới của Trung
Quốc “không yên ổn”.
Sau khi Mao Trạch Đông qua đời tháng 9-1976
và “nhóm bốn tên” bị lật đổ tháng 10-1976, ban lãnh đạo mới của Trung
Quốc vẫn hầu như giữ nguyên đường lối trong qua hệ với Liên Xô. Đại hội XI Đảng
Cộng sản Trung Quốc (8-1977), nhắc lại đường lối thù nghịch với Liên Xô và thậm
chí kêu gọi thành lập “Mặt trận thống nhất quốc tế” phục vụ cuộc đấu tranh
chống Liên Xô. Được hội nghị đại biểu nhân dân toàn Trung Quốc thông qua tháng
3-1978, hiến pháp mới đã đề cập đến sự cần thiết “sẵn sàng bảo vệ đất nước
chúng ta khỏi hoạt động lật đổ và xâm lược từ phía chủ nghĩa đế quốc - Xã hội
và chủ nghĩa đế quốc”. Ngày 3-4-1979, Chính phủ Trung Quốc tuyên bố không
có ý định kéo dài thời hạn Hiệp ước Hữu nghị, Liên minh và Tương trợ ký ngày
14-2-1950 với Liên Xô.
Mâu thuẫn Trung - Xô trong thập kỷ 70 không chỉ
làm tổn hại đến qua hệ hai nước, gây bất ổn cho hệ thống XHCN, mà còn tạo nên
những đe dọa cho hòa bình, an ninh khu vực. Mối mâu thuẫn này đã làm cho Châu Á
- Thái Bình Dương không thể yên bình như tên gọi của nó mà đứng trước nguy cơ
bão táp, thậm chí phải đối mặt với “sóng thần” [13;38].
Sự tách biệt giữa Liên Xô và Trung Quốc càng trở
nên nghiêm trọng và cho đến đầu thập niên 60 mối quan hệ của họ trở nên thù địch.
Mâu thuẫn giữa hai cường quốc này có ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ quốc tế. Khi
xung đột Trung - Xô xảy ra, cuộc chiến tranh lạnh, sự đấu tranh đầu tiên giữa
hai cực Đông - Tây trở nên phức tạp. Nó làm mất đi mối quan hệ tam giác giữa
Liên bang Xô Viết, Trung Quốc và Mỹ. Mâu thuẫn Trung - Xô làm suy yếu hệ thống
XHCN. Hậu quả tất yếu là Mỹ và các nước Phương Tây ra sức khai thác mâu thuẫn
này phục vụ cho chính sách của họ. Mâu thuẫn Xô Trung tiếp tục xấu đi cho đến
cuối thập niên 80 mới được cải thiện.
Thực chất, nguyên nhân của sự căng thẳng trong
quan hệ Trung - Xô phải được nhìn từ nhiều góc độ:
Thứ nhất: xét về hình thức, mâu thuẫn Trung - Xô
được nhìn thấy là bắt đầu từ sự bất đồng giữa hai Đảng của hai nước. Khi Trung
Quốc có những thất bại trong nước (cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội đã đẩy con
đường xây dựng XHCN “Đại nhảy vọt” của Mao Trạch Đông vào bế tắc), Mao Trạch
Đông đã phủ nhận con đường của Liên Xô, phủ nhận sự sùng bái Liên Xô, đòi xét
lại con đường XHCN do Liên Xô khám phá và xây dựng, phê phán con đường “giáo
điều của Liên Xô”. Trên cơ sở đó, Trung Quốc muốn lựa cho mình một con đường
riêng.
Bên cạnh những bất đồng về tư tưởng và đường
lối, vấn đề biên giới hai nước như chất xúc tác thúc đẩy nhanh quá trình tan vỡ
của mối quan hệ đồng minh chiến lược Xô - Trung, đẩy Trung Quốc vào thế buộc
phải liên minh với Mỹ để chống Liên Xô và phục vụ lợi ích riêng của mình.
Thứ hai: nhìn từ góc độ sâu xa của vấn đề, ta
phải nhìn từ tư tưởng của chủ nghĩa Mao, “Chủ nghĩa dân tộc Đại Hán”. Trung Quốc
vốn có tư tưởng chủ nghĩa nước lớn từ trong lịch sử, đó là nền tảng của học
thuyết thế giới thứ ba của Mao Trạch Đông sau này. Đây là cốt lõi, là nền tảng
“bất biến” để Trung Quốc xây dựng đường lối đối ngoại qua các thời kỳ một cách
“khả biến”.
Chính từ nền tảng đó mà sau khi cách mạng thành
công và trong suốt thập niên 50 của thế kỉ XX, Trung Quốc không thể không trở
thành đồng minh của Liên Xô. Nhưng trong thời gian xây dựng mối quan
hệ “Đồng minh chiến lược” ấy, một mặt vấn đề biên giới chưa được giải
quyết thỏa mãn khiến Trung Quốc “bằng mặt mà chẳng bằng lòng”, song vẫn
dựa vào Liên Xô để phát triển. Mặt khác, Liên Xô là nước đi đầu trong công cuộc
xây dựng XHCN, có tiềm lực mạnh và nhất là nằm trong lòng cuộc chiến tranh
lạnh, nên muốn đẩy mạnh sự phát triển của hệ thống XHCN trên toàn thế giới, tất
nhiên dưới sự chi phối của Liên Xô. Vì thế, Trung Quốc sau khi đã có những bước
phát triển nhất định, muốn khẳng định tư tưởng nước lớn của mình nhưng chưa thể
vượt lên được Liên Xô. Vì không chịu coi Trung Quốc là một cường quốc bình
đẳng, nên Liên Xô trở thành “chướng ngại vật” trên con đường và tham
vọng của Trung Quốc. Trong hoàn cảnh đó, tất yếu Trung Quốc sẽ phải rẽ ngang
trên chặn đường liên minh với Liên Xô và duyên cớ đầu tiên Trung Quốc tạo ra là
xoáy sâu vào những bất đồng giữa hai Đảng của hai nước, tiếp đó là vấn đề biên
giới được đặt ra đã đẩy mối quan hệ đồng minh Trung - Xô vào tan vỡ.
Thứ ba: song song với những nguyên nhân sâu xa
trên, ta thấy trong thực tế của thập kỉ 60 và 70 của thế kỉ XX, Trung Quốc chìm
ngập trong khủng hoảng kinh tế, xã hội, những khó khăn trong nước và nhu cầu về
vốn, kỹ thuật… đã đẩy Trung Quốc xích lại gần Mỹ với mong muốn có một kế hoạch
Massan thứ hai trong lịch sử Mỹ dành cho Trung Quốc, tạo “cú hích” cho
nền kinh tế Trung Quốc nhanh chóng phục hồi và phát triển. Sự liên minh Trung -
Mỹ là yếu tố quyết định trực tiếp làm tan vỡ hoàn toàn mối quan hệ “Đồng
minh chiến lược Xô - Trung” [13;38,39].
Như vậy, chính sách chống Liên Xô của Trung Quốc
thực chất chỉ là phương tiện để Trung Quốc thực hiện những khát vọng của mình,
bởi đối với Trung Quốc “mèo trắng hay mèo đen không quan trọng, miễn là
giật được chuột”, khiến cho quan hệ Trung - Xô liên tục biến đổi về bản chất.
Cục diện mâu thuẫn Trung - Xô đã thúc đẩy cho cuộc chiến tranh lạnh giữa hai
cực Xô - Mỹ diễn ra mạnh mẽ ngay trong lòng Châu Á, tác động tiêu cực đến an
ninh khu vực.
2.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến
quan hệ Trung Quốc - Liên Xô (1959 - 1979)
2.3.1. Yếu tố Mỹ
Từ khi Liên Xô xuất hiện, nó được xem như một
quyền lực toàn cầu thực sự, sự gia tăng ảnh hưởng và vị thế nước này trên
trường quốc tế đã làm cho Mỹ lo ngại và bày tỏ quan điểm rằng “vấn đề của
thời đại chúng ta là làm thế nào quản lí sự xuất hiện của Liên Xô là một siêu
cường”. Thập niên 60 sự đối đầu của hai nước lớn trong khối XHCN là thời
điểm “mong chờ” của Mỹ, là cơ hội để cho Mỹ kéo Trung Quốc về phía
mình, tăng thêm đồng minh và sức mạnh để chống Liên Xô [13;37] và thực tế cho
thấy “những chia rẽ Trung - Xô chuẩn bị cho quá trình hòa giải Trung -Mỹ bắt
đầu vào những năm 70”. Đỉnh cao xung đột Trung - Xô là thời điểm Mỹ đang diễn
ra cuộc bầu cử tổng thống, kết quả là Richard Nixon đã đắc cử vào Nhà Trắng.
Những tin tức được báo cáo về Washington trong thời gian này chưa tạo nên nhiều
sự chú ý đậm nét về cuộc xung đột giữa hai nước lớn nhất trong khối XHCN, bởi
lúc này Nixon không có ở Mỹ, vị tổng thống mới nhậm chức được tám tuần đang
cùng với Ngoại trưởng của mình là William P. Rogers đến viếng tham chính thức
Châu Âu để chứng minh rằng mình là một nhà lãnh đạo “Chính sách ngoại
giao”. Cả Rogers và Kissinger đều không rõ lắm về cuộc xung đột Trung - Xô,
hoặc bất cứ một sự am hiểu nào về lịch sử của cuộc đối đầu sinh động tại khu
vực biên giới này[15;92]. Cho dù không có bằng chứng, theo quan điểm của mình,
Nixon đã kết luận rằng Trung Quốc đã bất đầu có những động thái quân sự, Bắc
Kinh là một trong hai thế lực ngày càng hiếu chiến hơn. Đến bây giờ, ông cũng
bị mê hoặc bởi cuộc đổ máu bất ngờ này giữa những người khổng lồ của Chủ nghĩa
Cộng sản [15;92]. khoảng một thời gian ngắn sau đó Nhà Trắng đã nhận ra lợi ích
của vấn đề nếu biết tận dụng nó một cách hợp lí, đúng thời điểm. Trong một báo
cáo của tình báo Nhà Trắng về các vấn đề nóng bỏng của tình hình thế giới đã
kết luận “dựa vào thực tế mà Liên Xô và Trung Quốc hiện nay, dường như nhìn về
nhau với sự thù địch hơn là đối với Mỹ và sử dụng các mối quan hệ của mình với
Mỹ như một cách thức đánh bại chính sách của kẻ thù” [15;100]. Rõ ràng Mỹ đang
đánh giá cao vị trí và tầm quan trọng của họ theo tư tưởng “kẻ thù của kẻ thù
là bạn” vì thực tế, cả Trung Quốc và Liên Xô đang có những động thái thân thiện
với Washington như một cách để gia tăng đồng minh trong cuộc xung
đột. “Căng thẳng sâu sắc giữa Matxcơva và Bắc Kinh sẽ đưa cả hai đối thủ
hướng tới ngưỡng cửa của Mỹ và sẽ tạo một cơ hội cho chính sách của
Mỹ” [15;92].
Trong khoảng hai thập kỷ (1949 - 1972) quan hệ
Mỹ - Trung không tồn tại chính thức, dù vậy kể từ năm 1960 cả hai nước dần nhận
ra rằng việc hợp tác với nhau sẽ có lợi cho cả hai. Quá trình này cũng phải mất
nhiều năm để hiểu nhau.
Khi Nixon vào Nhà Trắng phải đối mặt với một
loạt “các hỗn độn xuất hiện để đe dọa đến hình ảnh nước Mỹ”, một mặt sự gia
tăng chỉ trích trong nước về cuộc chiến tranh mà nước này đang tiến hành tại
Việt Nam, và cuộc chiến này cũng kéo hình ảnh đối ngoại của Mỹ theo hướng giảm
dần, tức sức mạnh và vai trò trung tâm trong các vấn đề thế giới đang bị thách
thức. Nhận thức được tình hình khó khăn, chính quyền Nixon bắt đầu đánh giá lại
chiến lược ngoại giao khi thế giới những năm 60 đang chuyển dần từ hai cực sang
đa cực. Học thuyết Guam mà Nixon công bố tháng 7-1969 như là một giải pháp lấy
lại hình ảnh nước Mỹ, trước hết thông qua một loạt các cam kết giảm căng thẳng
tại Châu Á, trong đó Mỹ đang tiến hành làm dịu quan hệ với Trung Quốc, điều này
được các nhà bình luận khẳng định “không nghi ngờ gì, Washington đã quyết định
lợi dụng cuộc xung đột Trung - Xô với thái độ kiên quyết hơn” [15;116]. Đây là
sự chuyển biến trong chính sách ngoại giao của Mỹ sau các thỏa thuận với
Matxcơva không thành công trong một số vấn đề quốc tế như thuyết phục Liên Xô
xem xét lại sự hỗ trợ cho Bắc Việt Nam, kiềm chế Trung Quốc khi nước này đạt
đến sự tiến bộ bất ngờ về công nghệ hạt nhân và tên lửa những năm 60, đưa Trung
Quốc chính thức gia nhập “câu lạc bộ hạt nhân” và trở thành cường
quốc quân sự có thể cạnh tranh trực tiếp với Mỹ và Liên Xô. Trong giai đoạn
chống cả hai siêu cường (1959 - 1969) Bắc Kinh đã từng tuyên bố sẽ sử dụng vũ
khí hạt nhân nhằm ngăn chặn các cuộc tấn công bất ngờ từ phía Mỹ hoặc Liên Xô.
Trong báo cáo chính trị đã được thông qua ở Đại hội IX, Mao Trạch Đông đã từng
tuyên bố: “chúng ta không được lơ là cảnh giác, không được coi thường sự nguy
hiểm của cuộc chiến tranh xâm lược do Mỹ, bè lũ xét lại Liên Xô phát động.
Chúng ta cần phải chuẩn bị chu đáo, chuẩn bị đánh lớn với chúng, chuẩn bị đánh
sớm với chúng, chuẩn bị đánh chính huy với chúng, cũng chuẩn bị chiến tranh hạt
nhân với chúng. Nói tóm lại, chúng ta phải có chuẩn bị” [9;71]. Phải thừa
nhận Trung Quốc tại thời điểm đó dân số và địa lí rộng lớn nhưng về mặt kinh
tế, quân sự chỉ trung bình nhưng sự tích lũy hạt nhân của nước này đang gia
tăng tại Châu Á thậm chí có thể thực thi quyền lực lớn hơn trong cộng đồng quốc
tế - theo nhận định của Washington. Mỹ cho rằng họ đang đối đầu với hai đối thủ
lớn tại Châu Á, Liên Xô cũng nhận thức được sự tiến bộ hạt nhân của Trung Quốc
nên trong cuộc xung đột biên giới nước này đã từng triển khai hệ thống phòng
thủ tên lửa đạn đạo (ABM) dọc biên giới với nước láng giềng vốn trước đây chỉ
nhằm vào Mỹ. Cho thấy cả Xô, Mỹ đều quan tâm đến Trung Quốc. Dù vậy, theo nhận
định của Mỹ: “Matxcơva sẽ không giúp Nixon thoát khỏi cuộc chiến ở
Việt Nam. Và đột nhiên, bằng chứng đã cho thấy rằng Matxcơva có lẽ sẽ tiếp
tục các kế hoạch tấn công Trung Quốc mà chẳng cần quan tâm tới sự tham gia hay
đồng ý của Washington”[15;117], quan ngại nếu Liên Xô thành công trong việc lật
đổ Mao chắc chắn quyền lực của điện Kremlin sẽ gia tăng tại khu vực Châu Á,
chính quyền Nixon cũng tính tới trường hợp liệu Liên Xô có tấn công Trung Quốc
bằng vũ khí hạt nhân không, điều này được thể hiện qua các cuộc tiếp xúc với
Matxcơva, Washington luôn cố gắng xác nhận thông tin này. Rõ ràng Mỹ đang lo
ngại quyền lợi toàn cầu của họ sẽ bị ảnh hưởng hơn là sự an ninh của Trung Quốc
cộng sản khi nước này bị tấn công.
Thực tế, lãnh đạo Liên Xô đã bàn tính nhiều đến
khả năng tấn công Trung Quốc bằng vũ khí hạt nhân “nếu muốn trừng trị họ (Trung
Quốc) mà lại tránh cho chúng ta phải tổn thất quá nặng nề thì hãy nên để cho
bom nguyên tử của chúng ta tỏ rõ uy lực, muốn loại trừ tận gốc mối đe dọa từ
phía Trung Quốc thì phải sự dụng vũ khí hạt nhân giáng một đoàn tiêu diệt vào
các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc, chỉ có dùng “phẫu thuật ngoại khoa”như vậy
mới có thể loại bỏ được cái u ác tính của Châu Á” [8;578]. Chính quyền Bắc Kinh
cũng nhận thấy lực lượng quân đội đang gia tăng dọc biên giới, một cuộc chiến
tranh đang đến gần, nhưng họ cũng có cơ sở để giảm bớt mối quan ngại đó, dựa
trên quan điểm mặc dù Xô - Mỹ có những thỏa thuận chung sống hòa bình, nhưng Mỹ
vẫn luôn xem Liên Xô là đối thủ chủ yếu và Trung Quốc cũng chung quan điểm này,
do vậy “Liên Xô không dám tạo ra một cuộc chiến tranh trên cả hai mặt trận
với Mỹ và Trung Quốc”. Liên Xô cũng đã hiểu rằng, các vị Nguyên Soái nói, rằng
“Mỹ sẽ chỉ có lợi từ một cuộc chiến tranh như vậy. Nixon sẽ chỉ cảm thấy hạnh
phúc khi ở thế“tọa sơn quan hổ đấu”. Trung Quốc đã nắm được cốt lõi của vấn đề
trong giải quyết mâu thuẫn với Liên Xô trên cơ sở không nhượng bộ “những kẻ xét
lại, Liên Xô có xâm chiếm Trung Quốc hay không còn phụ thuộc rất lớn vào thái
độ của Mỹ. Cho tới nay, Mỹ vẫn không cho phép Liên Xô cảm thấy thoải mái và
trên thực tế là mối quan ngại lớn nhất đối với Liên Xô” “và chủ nghĩa đến quốc
Mỹ hoàn toàn không muốn nhìn thấy Liên Xô giành thắng lợi trên bất cứ cuộc xung
đột Trung - Xô nào và do đó thành lập một siêu nhà nước có ngồn tài nguyên và
sức mạnh con người vượt Mỹ” [15;131]. Những quan điểm này được thể hiện trong
báo cáo phân tích mối quan hệ giữa Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ, bản báo cáo cũng
chỉ ra rằng lợi ích chiến lược của Trung Quốc muốn đạt được trong giai đoạn này
cần thiết phải lợi dụng sự căng thẳng giữa Liên Xô và Mỹ để tăng vị thế theo
hướng có lợi nhất. Đây là một trong những nguyên nhân Bắc Kinh đồng ý nối lại
đàm phán tại Warsaw với Washington tháng 9-1969. Điều này
cũng cho thấy Bắc Kinh đang chủ động sử dụng Mỹ như con bài trong cuộc đối đầu
với Liên Xô.
Nhận định xung đột Trung - Xô đóng vai trò quan
trọng trong định hình quan hệ Trung - Mỹ cuối thập niên 60 đầu thập niên 70 là
hoàn toàn có cơ sở. Marshall Green - đại sứ Mỹ tại Indonesia năm 1967 trong
cuộc tiếp xúc với Nixon từng phát biểu “nếu Mỹ muốn chống lại sức mạnh của Liên
Xô cần thiết phải sử dụng Trung Quốc”, “con đường tới Matxcova nằm xuyên qua
Bắc Kinh” [50;101]. Đến đầu năm 1969, Kissinger đã viết về khả năng rạn nứt
Trung - Xô khi cho rằng “không thể bỏ qua” nếu nó xảy ra Mỹ nên tận
dụng lợi thế của nó. Washington đã chuyển hướng từ việc chỉ chú tâm
trong cuộc chiến tại Đông Dương sang Trung Quốc vì trong nhận thức điều “tồi
tệ” nhất sẽ xảy ra với Mỹ nếu Liên Xô “chiếm” được Trung Quốc. Washington dựa
trên nhận định các nhà lãnh đạo Liên Xô muốn tìm cách để kiềm chế Trung Quốc
trực tiếp, bên cạnh đó còn tìm kiếm quan hệ gần gũi với các nước trong khu vực
nhằm ngăn cản nước này có cơ hội “tiếp xúc” với đối thủ của Kremlin. Chính sự
nghi ngờ này là cơ hội cho Nhà Trắng thông qua chiến lược ngoại giao tam giác,
như việc tìm cách tiếp cận Trung Quốc, Mỹ sẽ buộc Liên Xô nhìn nhận lại cuộc
chiến đang diễn ra với tư cách là đồng minh viện trợ chính.
Trở lại tư tưởng chung sống hòa bình của
Khrushev với tất cả các nước tư bản từ thập niên 50 đã làm Bắc Kinh hụt hẫng và
nghi ngờ, khi trong gian đoạn này Trung Quốc vẫn xem Mỹ là kẻ thù, vì thế nếu
muốn sử dụng Trung Quốc cho chiến lược ngoại giao thì điều đầu tiên Mỹ phải xóa
bỏ đi quan điểm Xô - Mỹ đang cấu kết chống lại Trung Quốc “chúng ta (Mỹ)
cần phải làm rõ để người Trung Quốc thấy chúng ta không thông đồng với Liên
Xô”. Những động thái ngoại giao thời Nixon cho thấy Mỹ sẵn sàng tìm bất kì cách
nào, bất kì cơ hội nào có thể bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc. Trung
Quốc ý thức được là nước yếu kém trong các cuộc xung đột với Liên Xô, khoảng
thời gian 1966 - 1967 nước này bắt đầu thay đổi chiến lược ngoại giao linh hoạt
hơn, đàm phán với Mỹ là biện pháp để gây ra sự mất cân bằng cho Liên Xô bằng
cách khuyến khích sự căng thẳng Xô - Mỹ. Từ quan điểm nàyWashington kết
luận mối đe dọa bởi Liên Xô sẽ nhắc nhở Trung Quốc cần dành vị trí ưu tiên
trong chính sách đối ngoại với Mỹ. Tóm lại nếu Washington có thể khôi phục lại
quan hệ và liên kết với Bắc Kinh thì Mỹ có thể sử dụng Trung Quốc là nhân tố
trong chính sách ngoại giao nhằm tạo ra sự đối trọng để kiềm chế tham vọng của
Matxcơva, đẩy Liên Xô đi đến giảm căng thẳng và chấp nhận các điều kiện theo
hướng có lợi cho Nhà Trắng.
Giảm căng thẳng với Trung Quốc có thể ngăn chặn
ảnh hưởng của Liên Xô tại Châu Á có thể tác động gây ra sự chú ý từ đồng minh
Châu Âu và bắt tay với Trung Quốc sẽ cho phép nước này duy trì sự cân bằng toàn
cầu hình thành một cơ cấu mới trong bang giao quốc tế. Vấn đề rò rỉ thông tin
Liên Xô sử dụng vũ khí hạt nhận để tấn công Trung Quốc, Mỹ đã sử dụng tin tức
thu thập này cung cấp cho Bắc Kinh như một yếu tố tạo nên lòng tin. Trong cuộc
họp nội các chính phủ, Nixon đã chỉ đạo “nên tìm cách thông báo nhanh chóng cho
Trung Quốc biết ý đồ của Liên Xô để họ chuẩn bị biện pháp đối phó cần
thiết” [8;579]. Ngày 28-8 Mỹ đã tìm cách đưa thông tin mật này lên báo tạo
nên một phản ứng mạnh mẽ từ Matxcơva và sự quan tâm của thế giới về một cuộc
chiến tranh hạt nhân sẽ xảy ra, đến ngày 15-10 Kissinger đại diện Nhà Trắng đưa
ra cảnh báo nếu Mỹ sẽ không giữ thái độ trung lập trong trường hợp Liên Xô tấn
công Trung Quốc và nước này sẽ tấn công 130 thành phố của Liên Xô để trả đũa,
hàm ý đã được đưa ra “lợi ích của Trung Quốc liên quan mật thiết đến lợi ích
của Hoa Kì. Hoa Kì không thể thờ ơ ngồi nhìn hành động của Liên Xô, một khi
cuộc chiến tranh bùng nổ Hoa kì có thể cho rằng cuộc chiến tranh thế giới thứ
ba sẽ bắt đầu và Hoa Kì sẽ áp dụng hành động như vậy đối với Liên Xô. Đoàn hạt
nhân Liên Xô đối với Trung Quốc tất cả sẽ dẫn đến hành động trả đũa từ phía
Trung Quốc, sự ô nhiễm do chiến tranh hạt nhân gây ra trực tiếp sẽ đe dọa tới an
nguy của hành chục vạn quân nhân Mỹ đóng ỏ Châu Á và sẽ làm cho sự cân bằng
sinh thái trên toàn cầu bị phá hoại, đó là điều Hoa Kì không thể tha thứ”
[8;580]. Thông điệp này được nhằm vào Bắc Kinh, dựa trên thông điệp này nhiều
nhà nghiên cứu cho rằng Mỹ đã giúp Trung Quốc thoát khỏi cuộc tấn công hạt nhân
từ phía Liên Xô vì 5 ngày sau đó Matxcơva đã hủy bỏ kế hoạch tấn công Trung
Quốc, trở lại đàm phán với nước này. Nhưng Trung Quốc vẫn thận trọng “lòng
tốt” từ Mỹ vì hiểu Washington có thái độ cứng rắn với Matxcơva
vì đang muốn trả đũa việc điện Kremlin đã từ chối hợp tác với nước này trong
việc ngăn chặn Trung Quốc phát triển vũ khí hạt nhân từ năm 1964. Vì vậy, Trung
Quốc vừa có bước chuẩn bị đối phó Liên Xô vừa kiểm tra độ chính xác thông tin.
Có 3 sự lựa chọn để Trung Quốc thoát khỏi mối đe
dọa từ Liên Xô:
- Thứ nhất: nước này sẽ chấp nhận những
quan điểm, tư tưởng mà Matxcơva đưa ra.
- Thứ hai: xây dựng một nước Trung Quốc tự
chủ hùng mạnh đủ sức đối phó các cuộc tấn công từ đối phương.
- Thứ ba: liên kết với một lực lượng thứ
ba.
Hai lựa chọn đầu tiên là không thể một nước
Trung Quốc vừa mới dành được độc lập và Đất nước chưa thoát khỏi khó khăn
do “Đại nhảy vọt” và “Cách mạng Văn hóa” đem lại. Vì vậy,
phương án thứ ba dường như là lựa chọn cuối cùng của Trung Quốc trong bối cảnh
đó. Điều này phù hợp với tư tưởng cân bằng mối đe dọa trong lí thuyết quan hệ
quốc tế mà nước này và nhiều nước đương thời áp dụng, theo đó khi quyền lợi
quốc gia đang bị đe dọa một nước sẽ thiết lập quan hệ với một nước hay một nhóm
nước đối nghịch để tạo nên sự đối trọng từ một nước hay một nhóm nước đang đe
dọa.
Trung Quốc lựa chọn Mỹ là một đối tác liên minh
hơn là tư cách một quốc gia, khi hai nước này có quyền lợi cần bảo đảm an ninh
cho sự phát triển. Trung Quốc thừa biết Mỹ hợp tác với họ để tạo nên một liên
minh chống Liên Xô và có cơ hội thậm nhập vào nền kinh tế đầy tiềm năng này.
Bằng sự tính toán Trung Quốc đã đạt được những gì họ mong muốn nhưng không phải
có những nhượng bộ đáng kể ảnh hưởng đến quyền lợi quốc gia.
Như vậy, sự xích lại gần nhau trong quan hệ Mỹ -
Trung là một trong những kết quả xung đột Trung - Xô kéo dài từ thập niên 50,
60 góp phần hình thành nên tam giác ngoại giao ba bên - sự điều khiển chính
sách có toan tính trong quan hệ song phương và ba bên giữa Mỹ, Liên Xô và
Trung Quốc. Đánh dấu việc Mỹ xem xét lại chính sách toàn vẹn với Trung Quốc,
thông cáo 1972 - kết quả thành công trong chính sách ngoại giao ba bên, trước
hết đối với Mỹ đã biết cách khai thác tinh tế làm sao cho hai nước vốn trước đây
là đồng minh không trở lại với nhau ban đầu. Sự tinh tế này được thể hiện:
- Thứ nhất, Mỹ sẽ kìm nén ý muốn nhằm
thúc đẩy các vấn đề có thể làm ngăn cách sâu sắc thêm quan hệ Trung - Xô mà chỉ
dựa trên những động thái của sự kiện vốn nảy sinh tất yếu từ hai nước XHCN này.
- Thứ hai, không để cho Trung, Xô nhận ra Mỹ sẽ
nghiêng hẳn về bên nào. Nếu làm tốt những điều trên sẽ có lợi cho lợi ích nước
Mỹ, lịch sử đã chứng minh điều này. Mỹ là nước chủ động tiếp xúc với Trung
Quốc, và điều quan trọng phía Trung Quốc cũng có những động thái tương tự.
2.3.2. Yếu
tố Việt Nam
Một đặc điểm lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ
cứu nước của Việt Nam là cả ba nước lớn Liên Xô - Trung Quốc - Mỹ đều trực tiếp
dính líu và đều có vai trò quan trọng trong cuộc chiến, khác nhiều so với các
cuộc chiến tranh thời cận, hiện đại như: chiến tranh Triều Tiên, chiến tranh
Trung Đông…
Đông Dương, không phải là trọng điểm chiến lược
của Mỹ. Mỹ xâm lược Việt Nam không phải vì mục tiêu kiểu thực dân cũ - chiếm
một khu vực địa lý nhất định để khai thác, mà vì chiến lược toàn cầu của Mỹ là
ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản tràn xuống Đông Nam Á và đánh phủ đầu phong
trào giải phóng dân tộc trên thế giới. Mỹ lao vào chiến tranh Việt Nam trong
một thế quốc tế và quốc nội rất không thuận nên họ rất coi trọng hoạt động
ngoại giao. Trong đó, các mũi ngoại giao quan trọng nhất mà Mỹ nhằm vào là Liên
Xô và Trung Quốc, hai địch thủ lớn nhất của Mỹ, hai đồng minh chủ yếu của Việt
Nam [15;95].
Đối với Mỹ, nhiệm vụ của ngoại giao với hai nước
này là kiềm chế, giữ chân hai nước để hai nước không trực tiếp can thiệp vào
chiến tranh, tác động để hai nước giảm giúp Việt Nam, lợi dụng mâu thuẫn giữa
hai nước để làm suy yếu hậu phương quốc tế của Việt Nam và khi cần thì vận dụng
vai trò của hai nước trong việc thực hiện các ý đồ của Mỹ. Với Nixon, một
câu hỏi lớn là làm thế nào để những vết rạn nứt bạo lực trong xung đột Trung -
Xô này sẽ có tác dụng gì ở Việt Nam. Chẳng có gì lo lắng hơn là tìm ra một giải
pháp chiến lược để thoát khỏi khu vực Đông Nam Á. Sẽ chẳng có nhiệm kỳ thứ hai
nếu như Nixon không kết thúc cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Liên Xô và
Trung Quốc cũng mâu thuẫn với nhau khá nhiều. Vấn đề khá phức tạp và tế nhị, Cả
hai nước đều là đồng minh chiến lược tin cậy của Việt Nam, đều ủng hộ và giúp
đỡ Việt Nam to lớn và đều mong muốn Việt Nam thắng Mỹ. Thậm chí có mặt hai nước
“phối hợp nhau” giúp Việt Nam, như việc Trung Quốc vận chuyển hàng viện trợ của
Liên Xô quá cảnh Trung Quốc sang Việt Nam. Mâu thuẫn giữa hai nước trong vấn đề
Việt Nam bắt nguồn từ việc hai nước có những tính toán khác nhau trong vấn đề
giúp Việt Nam.
Chiến lược của Liên Xô lúc này là giữ gìn hoà
bình, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng CNXH, tạo hoà
hoãn Đông - Tây, đặc biệt là hoà hoãn với Mỹ. Liên Xô đặt cao nhiệm vụ giúp
Việt Nam đánh Mỹ. Cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam phù hợp với chiến lược
của Liên Xô, kiềm chế Mỹ, góp phần làm cho Mỹ suy yếu, tạo điều kiện để Liên Xô
vươn lên cân bằng với Mỹ về chiến lược. Liên Xô giúp Việt Nam vì lợi ích chiến
lược đồng thời cũng là nghĩa vụ đối với một đồng minh XHCN thân cận. Giúp Việt
Nam, vị thế của Liên Xô trong phong trào cách mạng thế giới càng được nâng cao
và cũng để bác bỏ mưu toan của Trung Quốc dùng vấn đề giúp Việt Nam để hạ bệ
Liên Xô. Về lâu dài, Liên Xô xây dựng quan hệ gắn bó với Việt Nam, lấy Việt Nam
làm bàn đạp phát triển quan hệ với Đông Nam Á.
Chiến tranh Việt Nam liên quan trực tiếp với
Trung Quốc. Mỹ là kẻ thù của Trung Quốc. Quan hệ giữa hai nước căng thẳng từ chiến
tranh Triều Tiên. Mỹ xâm lược Việt Nam, đưa chiến tranh sát biên giới Trung
Quốc, uy hiếp an ninh Trung Quốc từ phía Nam. Việt Nam là đồng minh thân thiết
của Trung Quốc từ ngày cách mạng Trung Quốc thành công. Trung Quốc giúp Việt
Nam vừa là nghĩa vụ đối với đồng minh vừa vì lợi ích chiến lược, kiềm chế ngăn
chặn Mỹ, làm cho Mỹ suy yếu, bảo đảm an ninh của Trung Quốc. Trung Quốc cũng
muốn nổi trội trong sự nghiệp giúp Việt Nam, muốn Việt Nam đánh Mỹ lâu dài, cho
đến lúc Mỹ thật sự suy yếu và Trung Quốc có thể có vai trò như đã từng có ở Hội
nghị Giơnevơ năm 1954. Khi giúp Việt Nam, Trung Quốc cũng tính đến vị thế của
mình trong phong trào cách mạng thế giới, đồng thời cũng muốn phá ý đồ của Liên
Xô độc quyền nắm ngọn cờ giúp Việt Nam.
Do những tính toán khác nhau như vậy, nên trong
vấn đề giúp Việt Nam, hai nước lớn đồng minh của Việt Nam có những chủ trương
và việc làm có tính chất chống nhau:
- Thứ nhất: Về vấn đề thống nhất hành động của
các nước XHCN:
Việt Nam kháng chiến chống Mỹ, mong muốn các nước
XHCN anh em, trước hết là ba nước Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam, có những biểu
thị về tinh thần và trên thực tế để tạo thế mạnh cho Việt Nam và áp đảo thái độ
hung hăng của Mỹ.
Ngày 5-2-1965, trên đường sang Việt Nam, Thủ
tướng Liên Xô Kosygin ghé qua Trung Quốc, gợi ý các nước XHCN ra chung văn kiện
kêu gọi họp một hội nghị quốc tế kiểu Giơnevơ về Việt Nam.
Ngày 22-2-1965, Việt Nam trao cho Liên Xô, Trung
Quốc, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên dự thảo tuyên bố chung của các nước
XHCN, lên án Mỹ tăng cường, mở rộng chiến tranh Việt Nam. Liên Xô tán thành,
còn Trung Quốc thì không đồng ý (28-2) . Tháng 3-1965, Liên Xô lại đề nghị họp
ba đảng Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam để bàn phối hợp hành động . . . nhưng
không được Trung Quốc chấp thuận.
Trong nhiều cuộc hội đàm giữa các nhà lãnh
đạo Việt Nam với lãnh đạo Trung Quốc, phía bạn thường nói thẳng không tán
thành hành động thống nhất. Tại cuộc hội đàm tại Hà Nội ngày 7-3-1971,Thủ tướng
Chu Ân Lai nói: “Nếu lập mặt trận chống Mỹ rộng rãi trên thế giới và đưa
Liên Xô vào thì chúng ta sẽ bị xỏ mũi”.
- Thứ hai:Trong vấn đề viện trợ cho Việt Nam:
Cả Liên Xô và Trung Quốc đều hết lòng, nhưng hai
nước cũng có nhiều xung khắc. Phía Trung Quốc thường lên án viện trợ của Liên
Xô, cho rằng “Liên Xô dùng viện trợ để phục vụ chính sách của
họ”. Trong một cuộc hội đàm, phía Trung Quốc bài xích viện trợ của Liên Xô
và khuyên Việt Nam không nhận viện trợ của Liên Xô, chỉ nhận viện trợ của Trung
Quốc.
Trong việc vận chuyển viện trợ của Liên Xô quá
cảnh qua Trung Quốc Việt Nam cũng gặp nhiều khó khăn, nhất là mỗi khi Liên Xô
có ý định thay đổi mặt hàng, khối lượng, biện pháp vận chuyển. Tháng 4-1967,
khi Liên Xô muốn tăng mức hàng viện trợ quá cảnh Trung Quốc từ 1 vạn lên 3 vạn
tấn/tháng, Việt Nam phải đứng ra dàn xếp mới được. Cũng vậy hai tháng sau, Liên
Xô muốn thoả thuận vận chuyển 24 máy bay MIG từ đường sắt qua đường không, phía
Trung Quốc cũng không chấp nhận, dù phía Việt Nam đã đứng ra làm trung gian dàn
xếp.
- Thứ ba: Trong vấn đề Việt Nam ngồi đàm phán
với Mỹ
Ý kiến của Liên Trung - Xô Quốc cũng khác nhau và sự gợi ý, gây sức ép của họ
cũng theo hướng khác nhau. Với chính sách hoà hoãn với Mỹ, từ sớm Liên Xô đã
sẵn sàng làm trung gian, tạo cơ hội cho các cuộc tiếp xúc Mỹ -Việt Nam (như vụ
May Flower tháng 5-1965). Liên Xô hoan nghênh chủ trương và tuyên bố của
Việt Nam (28-l-1967) đòi Mỹ chấm dứt ném bom để nói chuyện. Mỹ - Xô cũng nhiều
lần trực tiếp bàn vấn đề hoà bình ở Việt Nam nhưng Liên Xô không đi xa lập
trường của Việt Nam.
Trái lại, Trung Quốc một thời gian dài phản đối,
tìm cách ngăn chặn cục diện đánh - đàm. Tháng 7-1965, trong hội đàm cấp cao ở
Bắc Kinh. phía Trung Quốc cho rằng: xét lại Liên Xô muốn miền Bắc đàm phán với
Mỹ, gạt Mặt trận dân tộc giải phóng, bán rẽ anh em? Sau khi Việt Nam có tuyên
bố 3-4-1968 mở cuộc tiếp xúc với Mỹ, thì Trung Quốc không tán thành và cho rằng
như thế là vội vàng quá, chưa phải thời cơ. phải giữ cao giọng. . . Đến khi
Việt Nam sắp thoả thuận với Mỹ về việc Mỹ chấm dứt ném bom và họp hội nghị 4
bên, phía Trung Quốc càng phản đối quyết liệt đến mức nêu vấn đề quan hệ và vấn
đề viện trợ để “nhắc nhở” ta. Việt Nam phải trải qua những chặng
đường rất gian truân.
Như vậy, cuộc chiến tranh Việt Nam đã trở thành
một trong những tác nhân tạo nên tam giác ngoại giao Trung - Xô - Mỹ, những tư
tưởng lớn gặp nhau trên cùng một con đường. Về phân mình, cuộc chiến tranh
Việt Nam đã phần nào ảnh hưởng đến chính sách ngoại giao của cả Liên Xô và
Trung Quốc, tác động không nhỏ đến quan hệ Trung - Xô trong giai đoạn này. Và
đây cũng là một trong những điểm yếu trong quan hệ giữa hai nước mà Mỹ đã lợi
dụng để tìm cách khoét sâu vào mâu thuẫn giữa hai nước kích động hai nước có
những động thái cứng rắn hơn cho vấn đề hòa bình ở Việt Nam, có lợi cho Mỹ.
2.3.3. Tư tưởng nước lớn của
cả Trung Quốc và Liên Xô
Cũng như mối quan hệ Trung - Việt, mối quan hệ
Trung - Xô có thời kỳ trăng mật, rồi lúc nóng, lúc lạnh và kết cục là dẫn đến
chiến tranh biên giới - dù các cuộc chiến ấy hạn chế về không gian và thời
gian.
Sau những mối quan hệ tốt đẹp trong những
năm (1949 - 1956), đến giai đoạn này quan hệ giữa hai nước đã bất đầu bột lộ
những bất đồng kín đáo xoay quanh các vấn đề lý luận. Đến giữa những năm 1950,
giới lãnh đạo Bắc Kinh bắt đầu có con đường đi riêng, họ chưa bao giờ quên Trung
Quốc là một nước lớn trên thế giới. Họ đã cố chọn cho mình một chỗ đứng
riêng trên trường quốc tế, bằng cách hướng về các nước kém phát triển. Bất chấp
phản ứng khá lạnh nhạt của Stalin, họ không bỏ lỡ một cơ hội thuận tiện nào để
khẳng định rằng con đường đấu tranh và kinh nghiệm của phong trào cách mạng
Trung Quốc là phù hợp với hoàn cảnh thực tiển của đất nước này. Dịp đầu tiên
cho thế thấy sự lựa chọn vừa kể là: Hội nghị các nước Á - Phi họp ở
Bandung năm 1955. Tại đây, thủ tướng Chu Ân Lai đã đóng vai trò hàng đầu, địa
vị và tiềm năng ảnh hưởng của Trung Quốc trên thế giới được mọi người nhìn nhận
bằng một con mắt hoàn toàn mới.
Việc liên minh với Liên Xô đã ràng buộc
Trung Quốc vào sự lệ thuộc Liên Xô không dễ dàng chút nào, vì xuất phát từ nhu
cầu cấp thiết và trong điều kiện thiếu tin tưởng lẫn, liên minh này tuy đưa đến
cho Mao Trạch Đông một hiệp ước an ninh chống lại sự tiến công của Mỹ, nhưng bù
lại Mao Trạch Đông phải công nhận nền độc lập của Mông Cổ và phải nhượng bộ một
loạt các đặc quyền cho Liên Xô ở Mãn Châu và Tân Cương hơn cả thời kì Sa Hoàng.
Theo nhận xét này, để có hiệp ước bảo trợ về an ninh, viện trợ phát triển đất
nước từ Liên Xô thì chính quyền Bắc Kinh phải đổi lấy bởi một phần quyền lợi
quốc gia và khi chủ nghĩa dân tộc trỗi dậy, đã trở thành nguyên nhân chính dẫn
đến quan hệ Trung - Xô bước vào thời kì hai mươi năm đầy sóng gió
(1959 - 1979), nó trở thành cơ hội cho chiến lược ngoại giao toàn cầu của một
số nước - điển hình là Mỹ.
Tất nhiên, hệ quả các cuộc chiến tranh biên giới
là khác nhau, song chúng ta thấy, Trung Quốcluôn có những tính toán và
hành động làm các nước láng giềng bất ngờ. Đặc điểm nổi bật của họ là lời nói
và việc làm khác nhau. Đứng trước nguy cơ chiến tranh với cả hai thế lực mạnh
nhất thế giới lúc bấy giờ, giới lãnh đạo Trung Quốc vẫn lạc quan đưa ra nhận
định rằng: “Trong tương lai gần, các cơ hội mà chủ nghĩa đế quốc Mỹ
và chủ nghĩa xét lại Liên Xô sẽ triển khai riêng lẻ hoặc cùng nhau một cuộc tấn
công quy mô lớn vào Trung Quốc là không nhiều”. Họ thừa nhận rằng giờ đây Liên
Xô đang tăng cường vũ trang cho các cuộc xâm chiếm, thành lập những Sư đoàn
điểm chống Trung Quốc trong dân chúng Liên Xô và gây áp lực lên các quốc gia
Châu Á gia nhập khối Liên minh an ninh chống lại Trung Quốc. Nhưng, họ vẫn xác nhận
rằng “nếu chủ nghĩa xét lại Liên Xô tổ chức một cuộc tấn công lớn chống
Trung Quốc, họ sẽ phải đối mặt với hàng loạt mối lo ngại và khó
khăn” [15;130].
Vì cả Trung Quốc và Mỹ đều coi Liên Xô là một kẻ
thù chủ yếu của họ, “Liên Xô không dám tạo ra một cuộc chiến tranh trên cả hai
mặt trận với Mỹ và Trung Quốc”. Liên Xô cũng đã hiểu, các vị nguyên soán nói,
rằng Mỹ sẽ chỉ có lợi từ một cuộc chiến như vậy. Nixon sẽ cảm thấy hạnh phúc
khi ở “thế tọa sơn quan hổ đấu”.
“Những kẻ xét lại Liên Xô có xâm chiếm
Trung Quốc hay không còn phụ thuộc rất lớn vào thái độ của Mỹ. Cho tới nay, Mỹ
vẫn không cho phép Liên Xô cảm thấy thoải mái và trên thực tế, là mối quan ngại
chiến lược lớn nhất đối với Liên Xô” [15;131]. Lợi ích chiến lược của Trung
Quốc nằm ở việc “lợi dụng sự căng thẳng giữa Mỹ và Liên Xô để gia tăng sức mạnh
cho vị thế của chúng ta”.
Với một triệu binh lính Liên Xô ở gần những họng
súng đang sẵn sàng nhả đạn dọc biên giới Trung - Xô, Mao Trạch Đông cho nổ thử
bom Hiđro ở khu vực sa mạc miền Tây Trung Quốc, một quả bom có sức công phá 3
triệu tấn được ném từ chiếc máy bay ném bom bốn động cơ của Trung Quốc, làm vỡ
tung bầu không khí trên khắp vùng sa mạc. Màn trình diễn sức mạnh này của Trung
Quốc gây chấn động lớn. Hai cuộc thử nghiệm được tiến hành trong vòng sáu ngày.
Trung Quốc không bao giờ bố trí hai cuộc thử nghiệm hạt nhân một cách liên tục
và hành động của Mao Trạch Đông mang theo thông điệp chính trị rõ ràng đối với
các sư đoàn của Liên Xô tập trung ở khu vực biên giới. Mao Trạch Đông đang sẵn sàng
sử dụng vụ khí tối thượng của mình để chống lại bất cứ kẻ xâm lược nào. Ông
đang thực hành nghệ thuật chiến tranh [15;132,133].
Ngay khi Liên Xô đe dọa tấn công các cơ sở hạt
nhân của Trung Quốc, Mao Trạch Đông mới nhắc nhở thế giới rằng Trung Quốc không
chỉ là một cường quốc hạt nhân mà họ đã phát triển đầu đạn nhiệt hạch có sức
công phá lớn rất nhiều lần quả bom ở Hirôshima và có khả năng xóa sạch tất cả
các thành phố.
Trước các tín hiệu phát ra từ phía Mỹ Trung Quốc
đã lên tiếng cảnh báo trước, Chu Ân Lai nói:“Trung Quốc không nên được phát họa
như một kẻ vì sự yếu thế hoặc sợ hãi Liên Xô mà tiếp cận Mỹ; nếu điều đó xảy
ra, thì bình thường hóa quan hệ hai nước sẽ chẳng thể tiếp tục. Chu Ân Lai cũng
trao đổi với Nixon rằng viễn cảnh dần cải thiện các mối quan hệ là thuận lợi,
vì “khả năng mở rộng cuộc chiến tranh Việt Nam đang được giảm dần” và “một cuộc
chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ giờ đây đã là một khả năng rất xa
vời” [15;139].
Xung đột biên giới Trung - Xô là một trong những
yếu tố quan trọng dẫn đến sự ra đời của thông cáo Thượng Hải năm 1972, tất yếu
đường lối ngoại giao của Matxcơva sẽ bị ảnh hưởng theo hướng buộc phải đều
chỉnh để hạn chế sự cô lập, đối đầu tác động đến lợi ích an ninh quốc gia.
Khi mối quan hệ Trung - Xô đang đứng bên bờ vực của một cuộc chiến tranh
toàn diện mà không còn cơ hội hòa giải nào, Matxcơva đã trở nên nhạy cảm với
các động thái ngoại giao từ Bắc Kinh đặc biệt là chính sách thân thiện với
Washington. Trong nhận thức của Liên Xô, khi Trung Quốc còn ở vị trí thấp trong
quan hệ quốc tế mà không có đồng minh hay một ủng hộ viên nào thì căng thẳng
giữa hai nước nên là vấn đề “thuần túy”, nếu lực lượng thứ ba can thiệp
vào, tình thế chắc chấn sẽ phức tạp hơn đồng nghĩa vị trí, vai trò của Liên Xô
sẽ bị ảnh hưởng trên trường quốc tế. Kể từ khi Washington - đối thủ chính của
Matxcơva tồn tại ý định sử dụng xung đột Xô - Trung như một biện pháp
gia tăng đồng minh, sức ép thì mọi chính sách ngoại giao của Liên Xô điều nhằm
mục đích ngăn ngừa nguy cơ này.
Do vậy, khi những động thái cải thiện ngoại giao giữa Mỹ và Trung Quốc biểu
hiện, Liên Xô bắt đầu tiến hành xác định tính xác thực của các tin tức tình báo
xung quanh vấn đề này và tất yếu Matxcơva không thể xem nhẹ sự chuyển hướng bất
ngờ trong quan hệ Mỹ - Trung. Ngày 20-10-1969 đại sứ Liên Xô tại Mỹ - Dobrynin
đã đưa ra thông điệp mạnh mẽ thể hiện sự quan tâm sâu sắc đầy hàm ý về chính
sách của Washington đối với Bắc Kinh: nếu “một ai đó” ở Mỹ cố tình lợi dụng
xung đột Trung - Xô mà không quan tâm đến thái độ của Liên Xô, và chỉ cần một
hành động gây bất lợi cho Liên Xô, chúng tôi sẽ thể hiện sự cảnh báo thẳng
thừng, nếu vẫn cứ phớt lờ cảnh báo thì có thể dẫn đến “một sai lầm rất
nghiêm trọng”. Giải thích cho sự phản ứng gay gắt này Đại sứ Liên Xô cho rằng
mục đích mong muốn quan hệ giữa hai nước càng càng tốt đẹp hơn, đừng vì những
lợi ích trước mắt mà gây ảnh hưởng lâu dài trong quan hệ hai bên. Chiến lược
ngoại giao của Liên Xô được đẩy mạnh nhằm đưa quan hệ giữa nước này với các
nước đối trọng vào trạng thái cân bằng nhất có thể.
Từ sau đỉnh điểm cuộc xung đột biên giới năm
1969 và đến thông cáo Thượng Hải được thông qua, quan hệ Trung - Xô không được
cải thiện, thái độ và cách nhìn nhận các vấn đề trong quan hệ quốc tế giữa hai
nước hoàn toàn khác nhau. Mười năm (1969 – 1979) tiếp tục là các cuộc đối đầu
về quân sự, bao vây ngoại giao, mâu thuẫn về ý thức hệ, hạn chế các quan hệ
kinh tế giữa Liên Xô và Trung Quốc, ngược lại với sự phát triển của thế giới là
sự thay đổi về các quan hệ chính trị, kinh tế.
Các cuộc xung đột biên giới đưa quan hệ đồng minh Trung - Xô đóng băng, gây ra
hệ quả: Bắc Kinh tuyên bố không gia hạn hiệp ước đồng minh tương trợ lẫn nhau
với Matxcơva sau khi hết hiệu lực năm 1979 bởi vì tình hình thế giới đã thay
đổi, địa vị Trung Quốc cũng thay đổi, hiệp ước này từ lâu không còn tồn tại
ngoại trừ tên gọi, phía Trung Quốc sẽ không chịu trách nhiệm khi mà những khác
biệt về nguyên tắc giữa Trung Quốc và Liên Xô quá lớn vì thế không nên có sự
ràng buộc giữa hai nước. Việc hiệp ước “Hữu nghị, liên minh, tương trợ Xô -
Trung” được xem xét lại cho thấy mối quan hệ giữa hai nước trở nên khó hòa
giải, Trung Quốc cho rằng khi kí hiệp ước 1950 là sự không công bằng với họ với
cái giá phải trả quá đắt để đổi lấy sự hỗ trợ về kinh tế, quân sự, khoa học kĩ
thuật bởi Liên Xô vì qua đó Matxcơva được tăng cường vị thế ở Châu Á, có thể sử
dụng hiệp ước nhằm ngăn chặn tham vọng chính trị, đối kháng nảy sinh giữa hai
đồng minh sau này “Hiệp ước Trung - Xô 1950 vẫn là một công cụ chính cho Matxcơva
tìm cách áp đặt bá quyền đối với Trung Quốc”; ủng hộ việc duy trì ở Châu Á -
Thái Bình Dương hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật; tán thành sự có mặt của Mỹ ở Đông
Nam Á; đặt quan hệ với NATO [13;37]. Tương tự như vậy Mỹ cũng tăng cường chạy
đua vũ trang; can thiệp vào Việt Nam như một sự răn đe sự bành trướng của Liên
Xô tại Châu Á.
Học thuyết “Ba thế giới” được đưa ra vào tháng 8-1973 tại Đại hội X
Đảng cộng sản Trung Quốc, theo đó, hai siêu cường Mỹ, Liên Xô thuộc thế giới
thứ nhất - là những kẻ thù địch chính trên quy mô thế giới; các nước đế quốc
phương Tây và Nhật Bản thuộc thế giới thứ hai - là một phần của mặt trận thống
nhất quốc tế chống lại các siêu cường; “đông đảo các nước phát triển, tuyệt đại
đa số các nước này trước kia là nước phụ thuộc của chủ nghĩa đế quốc. họ bị chủ
nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc áp bức và bóc lột lâu dài. Tuy họ đã giành
được độc lập về chính trị, nhưng điều đang đứng trước nhiệm vụ lịch sử là quét
sạch tàn dư của chủ nghĩa thực dân, phát triển kinh tế dân tộc, cũng cố độc lập
dân tộc. Những nước này bị áp bức nặng nề nhất, yêu cầu chống áp bức, mưu cầu
giải phóng và phát triển cũng mãnh liệt nhất. Họ là lực lượng chính chống chủ
nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc, nhất là những nước tiêu hóa lớn - gọi là thế
giới thứ ba” [8;616]. Với các phân chia thế giới này Trung Quốc xem họ “thuộc
thế giới thứ ba, trong 5 nước thường trực hội đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc, Trung
Quốc là nước thứ ba duy nhất, là người bạn và người phát ngôn kiên định của tất
cả những nước trong thế giới thứ ba” [8;617]. Chủ thuyết này xếp Liên Xô và Mỹ
cùng vào bản chất đế quốc như nhau, khi đó các nước đồng minh của Mỹ được hạ
thấp trong mối quan hệ quốc tế nhưng lại xếp các dân tộc bị áp bức ở Châu Á,
Châu Âu và Mỹ La tinh cùng một mặt trận.
Việc triển khai chủ thuyết ba thế giới của Trung Quốc đi từ nhận thức đến một
chiến lược mang tính toàn diện. Khía cạnh quan trọng của lí thuyết Ba thế giới
đã từng được Đặng Tiểu Bình trình bày trong một báo cáo tại Liên Hiệp Quốc năm
1974, Trung Quốc tự cho họ có vai trò lãnh đạo thế giới thứ ba và coi thế giới
thứ ba là cơ sở để nâng địa vị ngang tầm với cả Liên Xô và Mỹ trên trường chính
trị thế giới vì nước này dựa trên cơ sở quyền lực mà họ đang xây dựng gồm 4
công cụ của sức mạnh quốc gia: tính linh hoạt trong ngoại giao; mức độ và tốc
độ phát triển kinh tế; sự khẳng định về văn hóa; và củng cố sức mạnh quân sự.
Đáp lại những lời tuyên truyền trong việc chống mình từ Bắc Kinh, Matxcơva cũng
có những động thái thể hiện vai trò là một nước lớn dùng mọi biện pháp để đưa
cực đang lãnh đạo vào “trật tự” “sang những năm 70 của thế kỉ XX, Liên Xô bắt
đầu thị uy sức mạnh của mình ở Đông Dương, bên cạnh đó coi thường việc Trung
Quốc chống chủ nghĩa bá quyền” [13;38]. Việc Liên Xô triển khai các hoạt
động quân sự dọc biên giới Trung Quốc đã bị Bắc Kinh lên án rằng Matxcơva đang
đe dọa trực tiếp đến an ninh nước này, gây ra tình trạng toàn bộ biên giới
Trung Quốc luôn không yên ổn. Năm 1979, Liên Xô đưa quân vào Apganixtan khi chế
độ thân Matxcơva có nguy cơ sụp đổ, chính quyền Bắc Kinh xem đây như là một
phần trong âm mưu của Liên Xô bao vây, cô lập họ “hành động của chủ nghĩa đế
quốc xã hội Xô Viết nhằm mục đích thể hiện trước Hoa Kì và Nhật Bản, đồng thời
họ cũng đang chuẩn bị vững chắc cho một cuộc chiến tranh xâm lược vào đất nước
chúng ta”, vì thế tìm kiếm liên minh với Mỹ và Pakistan là giải pháp mà Trung
Quốc lựa chọn vừa chống lại thế bị đe dọa đến an ninh quốc gia vừa làm nhiệm vụ
quốc tế “ngăn chặn các cuộc xâm lược” mở rộng chủ nghĩa bá quyền từ Liên Xô.
Như vậy, ngoài việc đưa quân vào Apganixtan tạo ảnh hưởng trực tiếp đến
Pakistan và Trung Quốc, Liên Xô còn liên minh với Ấn Độ, Mông Cổ để đẩy Trung
Quốc vào tình thế chịu sức ép dọc theo tuyến biên giới Đông và Tây Nam. Khẳng định
vai trò lãnh đạo, ảnh hưởng trong khối XHCN cũng là biện pháp mà Liên Xô áp
dụng để giải quyết mâu thuẫn với Trung Quốc, đưa nước này thoát khỏi thế liên
minh do Trung Quốc khởi xứng để chống Matxcơva. Cuộc chiến tranh tại Việt Nam
là một điển hình cho sự cạnh tranh mang tầm ý đồ chiến lược của hai nước lớn
nhất trong khối XHCN, bởi vì “cuộc kháng chiến chống Mỹ của Việt Nam phù hợp
với chiến lược của Liên Xô, kiềm chế Mỹ góp phần làm cho Mỹ suy yếu, tạo điều
kiện để Liên Xô vươn lên cân bằng với Mỹ về chiến lược. Liên Xô giúp Việt Nam
vì lợi ích chiến lược đồng thời cũng là một đồng minh XHCN thân cận. Giúp Việt
Nam, vị thế của Liên Xô trong phong trào cách mạng thế giới càng được nâng cao
và cũng để bác bỏ mưu toan của Trung Quốc dùng vấn đề Việt Nam để hạ bệ Liên
Xô ” [6;34].
Việc sử dụng chiến tranh Việt Nam trở
thành một trong những giải pháp để Liên Xô vừa tăng cường ảnh hưởng ở Đông Nam
Á, vừa phá vỡ thế bao vây từ liên minh Trung - Mỹ. Trong thời kì Mỹ còn được
xem là kẻ thù, Trung Quốc giúp Việt Nam vừa thể hiện vai trò của một đồng minh
XHCN vừa ngăn chặn một cuộc chiến tranh có thể diễn ra sát biên giới nước này,
những thay đổi mạnh mẽ trong quan hệ quốc tế đã tác động đến sự nhận thức về vị
trí của cuộc chiến tranh tại Việt Nam “đến một lúc nào đó, họ (Trung Quốc) có
thể phát huy vai trò nước lớn trong một giải pháp chính trị cho một cuộc chiến
tranh. Khi giúp Việt Nam, Trung Quốc cũng tính đến vị thế của mình trong phòng
trào cách mạng thế giới, đồng thời cũng muốn phá vỡ ý đồ của Liên Xô nắm độc
quyền ngọn cờ giúp Việt Nam” [6;34]. Thực tế, đến năm 1978 mối quan hệ Xô -
Việt Nam được nâng cao hơn bằng hiệp ước Tương trợ an ninh, Trung Quốc cho rằng
hiệp ước này nhắm vào họ, lúc này mối quan hệ Trung - Việt đã suy giảm mạnh thể
hiện qua các cuộc đụng độ quân sự dọc biên giới hai nước và cuộc chiến tại
Campuchia.
Như vậy, Liên Xô không “hài lòng” với việc Mỹ - Trung xích lại gần nhau trong
những năm đầu thập niên 70, việc cải thiện quan hệ với Mỹ trong thời gian này
là cách để Matxcơva cho Bắc Kinh thấy rằng nước này mới là chủ chốt trong quan
hệ với Washington, Trung Quốc thì chỉ được sử dụng như giải pháp tạm thời giúp
Mỹ giải thoát một số khóa khăn mà nước này gặp phải. Thực tế, từ đầu thập niên
70 giữa Liên Xô và Mỹ đã tiến hành các cuộc đàm phán cấp cao gây cho Trung Quốc
sự phàn nàn Mỹ đang “đứng trên vai của Trung Quốc” để đạt được những lợi thế
với Liên Xô là cách nói thể hiện một phần nhận định đó. Các cuộc gặp cấp cao
giữa Liên Xô và Mỹ vừa góp phần giảm đi nguy cơ về một cuộc đụng độ quân sự,
chiến tranh hạt nhân có thể xảy ra, thúc đẩy từng bước giải quyết các vấn đề
quốc tế lớn, làm dịu tình hình Châu Âu và quốc tế nhằm tác động đến nền hòa
bình an ninh nhân loại; điều quan trọng là Liên Xô đạt được với Mỹ những cam
kết không trợ giúp quân sự hay các biện pháp cần thiết cho các đối thủ góp phần
đe dọa đến an ninh quốc gia nước này. Tất nhiên để đạt được một số thỏa thuận
với Mỹ, Liên Xô phải chấp nhận một số điều khoản do Washington đề xuất.
PHẦN KẾT LUẬN
Quan hệ Trung - Xô cuối những năm 1960 xấu đi
không chỉ bởi sự bất đồng sâu sắc về quy chế của vùng ngoại Mông, mà còn bởi
rất nhiều tranh chấp chủ quyền dọc theo biên giới Xô - Trung. Thực tế, những
xung đột này đã mang mầm móng từ bên dưới bề mặt của mối quan hệ Trung - Xô
trong hơn một thế kỷ, kể từ khi đế chế Nga buộc Trung Quốc phải kí một loạt các
hiệp ước nhượng lại nhiều phần lãnh thổ lớn của mình. đối với Trung Quốc, những
phần lãnh thổ bị mất là rất lớn: một vùng rộng lớn hơn cả phần phía Đông sông
Mississibi của nước Mỹ đã trở thành lãnh thổ của Nga, hoặc trong trường họp
ngoại Mông, đặt dưới sự bảo hộ của Nga. Những tranh chấp biên giới Trung - Xô
cuối những năm 1960 làm Matxcơva và Bắc Kinh vô cùng lo lắng, vì cả Liên Xô và
Trung Quốc điều là các cường quốc hạt nhân; dường như có một sự đồng thuận
không chính thức là không bên nào dùng đến sức mạnh không quân. Các xung đột
biên giới Trung - Xô này đã để lại những hậu quả rất lớn về xã hội, khiến cả
hai quốc gia phải sử dụng những nguồn lực hiếm hoi để chuẩn bị cho cuộc chiến
tranh hạt nhân có thể xảy ra hoặc cho sự leo thang quân sự trong tương lai dọc
theo các đường biên giới Trung. Sự vững tin mới có được của PLA về khả năng có
thể chống chọi được Hồng quân Liên Xô cũng cho phép Bắc Kinh có cơ hội trong
năm 1971 thực hiện chính sách đối ngoại mới thức đẩy quan hệ than thiện với Mỹ.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng nổ lực quan hệ cải thiện với Nhật Bản, kí kết một
hiệp ước và tháng 8-1978 với nội dung dường như có tính chất chỉ trích chính
sách đối ngoại của Liên Xô ở Châu Á bằng việc lên án đích danh “chủ nghĩa
bá quyền”. Cuối cùng, những căn thẳng Trung - Xô cũng đưa đến một số cuộc chiến
tranh qua tay người khác ở Đông Nam Á, chẳng hạn như cuộc xung đột cuối những
năm 1970 giữa Việt Nam và Campuchia, cũng như khiến Trung Quốc chấp nhận vai
trò cường quốc khu vực của mình, trong đó thể hiện rõ nhất bằng cuộc tấn công
của Trung Quốc vào Việt Nam 1979 nhằm cản trở sự ảnh hưởng đang lên của Liên Xô
ở Đông Nam Á.
Trong suốt những năm 1970, những căng thẳng
Trung - Xô vẫn ở mức cao. Trong thời kì này, Matxcơva cố gắng thuyết phục Bắc
Kinh đàm phán một hiệp ước mới hổ trợ hoặc thay thế, Hiệp ước Trung - Xô 1950.
Bắt đầu từ năm 1969 và 1970, Matxcơva đề xuất rằng hai bên cam kết không tấn
công lẫn nhau và đặt biệt là không dùng đến vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, khi Bắc
Kinh không thể hiện bắt cứ sự quan tâm nào đến thỏa thuận này, năm 1971
Matxcơva đề xuất việc hai nước kí một hiệp ước mới cùng nhau từ bỏ việc sử dụng
vũ lực. Sau đớ. Năm 1973 Matxcơva thể hiện sự quan tâm bằng đề xuất cụ thể rằng
hai nước kí một hiệp ước không tấn công lẫn nhau; nhưng Bắc Kinh tiếp tục phớt
lờ đi những bước đi của Matxcơva.
Trung Quốc không những không khuất phục trước
sức ép ngoại giao và quân sự của Liên Xô mà còn tìm cách gây áp lực với
Liên Xô bằng việc cũng cố quan hệ với Mỹ và Nhật Bản. Có thể nói rằng chính
sách của Bắc Kinh đã thành công hơn và kết quả là việc Bắc Kinh kí các thỏa
thuận quan trọng với cả Wasingtơn và Tokyo. Đối với Matxcơva, rõ ràng các thỏa
thuận mới này của Trung Quốc là nhằm chống Liên Xô, do - ít nhất trong trường
hợp hiệp ước Trung - Nhật, cả hai bên lên án “chủ nghĩa bá quyền”, thuật
ngữ mà Trung Quốc thường dùng để chỉ sự bành trướng của Liên Xô. Đối sách của
Liên Xô là tăng cường quan hệ ngoại giao của tất cả các nước Đông Nam Á có biên
giới chung với Trung Quốc, trong đó quan trọng nhất là Việt Nam.
Hai mươi năm đầy sóng gió trong quan hệ Trung -
Xô trong lịch sử đã trở thành vết sẹo, song nó vẫn không dễ gì mất đi một sớm,
một chiều. Chính vì vậy, khi mối quan hệ “đối tác chiến lược” Nga - Trung ngày
nay phát triển đầy triển vọng, nhưng trong lòng nó vẫn chứa đựng không ít những
tồn tại, thách thức, khiến ta không khỏi băn khoăn: liệu vết thương đã
được gắn miệng trong quan hệ hai nước có khi nào tái phát trong tương lai.
TÀI LIỆU KHAM KHẢO
[1]. William. Bel, 2002, Kit-Sinh-Gơ (Những
biên bản hội đàm tuyệt mật chưa công bố), NXB Thanh niên, Hà Nội.
[2]. Peter Calvocoressi, 2007, Chính
trị thế giới sau năm 1945, NXB Lao Động, Hà Nội.
[3]. Lê Phụng Hoàng, 2005, Lịch sử
quan hệ quốc tế ở Đông Á từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến cuối chiến
tranh lạnh (1945 - 1991), ĐHSPTPHCM, Tài liệu lưu hành nội bộ.
[4]. Lê Phụng Hoàng, 2007, Lịch sử quan hệ
quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ hai (1945 - 1975), tập 1, ĐHSPTPHCM, Tài
liệu lưu hành nội bộ.
[5]. Nguyễn Quốc Hùng, Lược sử Liên Bang
Nga 1917 - 1991, NXBGD, Hà Nội.
[6]. Nguyễn Khắc Huỳnh, 2010, Cuộc kháng
chiến chống Mỹ của Việt Nam dưới tác động của những nhân tố quốc tế,
NXBCTQG, Hà Nội.
[7]. Lí Kiện, 2002, Ngọn lửa chiến tranh
lạnh, NXB Thanh niên, tập 2, Hà Nội.
[8]. Lí Kiện, 2008, Trung - Xô - Mỹ cuộc
đối đầu lịch sử, NXB Thanh niên, Hà Nội.
[9]. Văn Phong - Mục Tử, 2007, Từ Mao Trạch
Đông đến Hồ Cẩm Đào - Năm đời Chủ tịch Quân ủy Trung ương Trung Quốc, NXBCTQG,
Hà Nội.
[10]. Sự thật về quan hệ
Việt Nam - Trung Quốc 30 năm qua, 1979, NXB Sự thật, Hà Nội.
[11]. Ngọc Thạch, 2003, Những sự kiện lịch
sử thế kỉ XX, NXBVHTT, Hà Nội.
[12]. Nguyễn Anh Thái, 1990, Lịch sử Trung
Quốc, NXBGD, Hà Nội.
[13]. Nguyễn Thanh Thủy, 2009, Hai mươi năm
sóng gió trong quan hệ Liên Xô - Trung Quốc (1959 - 1979), Tạp chí Nghiên cứu
Châu Âu, Hà Nội.
[14]. Trần Nam Tiến (chủ biên) - Nguyễn
Tuấn Khanh - Trần Phi Tuấn, Lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại (1945 - 2000),
NXBGD, Hà Nội.
[15]. Patrick Tyler, 2008, Một thiên lịch
sử sáu đời tổng thống Mỹ - Trung, NXBCAND, Hà Nội.
[16]. P.Varơnai, 1982, Chủ nghĩa Mao chống
phong trào cộng sản thế giới, NXB TT Lý luận, Hà Nội.
[17]. Trần Thị Vinh, 2007, Lịch sử thế giới
hiện đại, NXB ĐHSP, Hà Nội.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nhận xét