Một số tư liệu về Cuộc chiến tranh tại Việt Nam (1954 – 1975)
I – SAU
CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI, CHIẾN TRANH VIỆT NAM LÀ CHIẾN TRANH LỚN NHẤT, KÉO
DÀI NHẤT, ÁC LIỆT NHẤT, TỐN KÉM NHẤT CỦA NƯỚC MỸ.
–Mỹ tiến
hành chiến tranh ở Việt Nam là thời gian chiến tranh dài nhất trong lịch nước
Mỹ (chiến tranh xâm lược Triều Tiên kéo dài 3 năm ; chiến tranh thế giới thứ
nhất tính từ lúc Mỹ tham gia kéo dài một năm rưỡi ; chiến tranh thế giới thứ
hai tính từ lúc Mỹ tham gia kéo dài 4 năm ; chiến tranh Mỹ – Tây Ban Nha kéo
dài 4 tháng (năm 1968) ; nội chiến Mỹ kéo dài 5 năm rưỡi.
–
Lực lượng quân đội Mỹ huy động vào cuộc chiến tranh Việt Nam: Từ năm 1965 đến
tháng 1 – 1973, Mỹ đã huy động khoảng 3 triệu lượt quân Mỹ sang miền Nam Việt
Nam. Ở đỉnh cao trong thời kỳ 1968 – 1969, có 638.000 quân Mỹ trực tiếp tham chiến
(chiếm hơn 18% tổng số quân Mỹ lúc đó), trong số này có 535.000 quân Mỹ đóng lãnh
thổ Nam Việt Nam. Riêng về bộ binh, Mỹ đã huy động gần 70% tổng số bộ binh
trong quân đội.
– Mỹ
đã huy động một khối lượng khổng lồ vũ khí, khí tài kỹ thuật vào loại hiện đại
nhất cho cuộc chiến tại Việt Nam.
* Máy bay
: Mỹ đã dùng 75 kiểu loại. Ở thời kỳ đỉnh cao sau 30 – 3 – 1972, Mỹ đã huy động
1270 máy bay chiến đấu (31% tổng số máy bay chiến đấu của Mỹ).
* Tàu chiến
: Mỹ đã sử dụng tại vùng biển Việt Nam lúc cao nhất 65 tàu chiến và tàu đổ bộ,
trong đó có từ 4 đến 5 tàu sân bay công kích 4 đến 5 tuần dương hạm. Hải quân
Mỹ đã tập trung cho hạm đội 7 Mỹ tới 6 tàu sân bay công kích, 5 tàu tuần dương
(55% của tổng số 9 chiếc). Đây là lực lượng hải quân Mỹ được tập trung lớn nhất
từ sau chiến tranh thế giới thứ hai.
* Thiết
giáp, pháo binh và tên lửa Mỹ đã sử dụng 18 loại xe tăng, thiết giáp ; 17 kiểu
loại pháo binh; 12 kiểu loại tên lửa trong chiến tranh ở Việt Nam. Ở thời kỳ
đỉnh cao 1968 – 1969, Mỹ huy động đến miền Nam Việt Nam 24 tiểu đoàn thiết giáp
(trong đó có 950 xe tăng) và 83 tiểu đoàn pháo binh với 1412 khẩu pháo.
* Bom mìn
và hóa chất : Mỹ đã sử dụng 14 loại bom mìn, 27 loại lựu đạn, đạn hóa học, bom
cháy. Mỹ đã rải ở miền Nam Việt Nam 45.260 tấn chất độc hóa học, khoảng 338.000
tấn bom napan. Từ 1965 đến tháng 8 – 1973, Mỹ đã dùng 7.882.547 tấn bom đạn
không quân ở Đông Dương, trong đó khoảng :
3.770.000
tấn ở miền Nam Việt Nam.
937.000
tấn ở miền Bắc Việt Nam.
2.109.000
tấn ở hành lang Nam Lào
321.000
tấn ở Bắc Lào
685.000
tấn ở Campuchia.
Số bom đạn
mà không quân Mỹ sử dụng ở Đông Dương gấp 12 lần số lượng chúng dùng trong
chiến tranh Triều Tiên, gấp 3,8 lần số lượng Mỹ sử dụng trong chiến tranh thế
giới thứ hai.
– Chi phí
: Mỹ đã tiêu tốn cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam 400 tỷ đô la, gấp 20
lần chi phí của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Triều Tiên và gấp 2 lần chi phí
của Mỹ trong chiến tranh thế giới thứ hai (250 tỷ đô la).
II- NHỮNG TRẬN ĐÁNH TIÊU BIỂU.
– Trận Ấp
Bắc (2 – 1 – 1963) tại Mỹ Tho, đập tan chiến thuật “trực thăng vận”, “thiết xạ
vận”, 2000 quân VNCH tử trận thuộc các sư đoàn 7,9 BB,…,lực lượng du kích và
quân Giải phóng thiệt hại không đáng kể, báo hiệu sự thất bại của “chiến tranh
đặc biệt”.
– Trận Bình
Giã (5 – 1 – 1965) (Bà Rịa, miền Đông Nam Bộ) Đánh thiệt hại nặng các đơn vị
tổng trừ vị của VNCH. Cùng với chiến thắng Ba Gia (31 – 5 – 1965) và Đồng Xoài
(12 – 6 – 1965) quân Giải phóng miền Nam đã làm phá sản hoàn toàn chiến lược
“chiến tranh đặc biệt” .Một chiến lược mới ra đời là“Chiến tranh cục bộ”, với
việc quân Mỹ ào ạt đưa quân vào miền Nam Việt Nam
– Trận Núi
Thành (28 – 5 – 1965) ở Quảng Nam do đại đội 2 tiểu đoàn 70 bộ đội địa phương
tỉnh Quảng Nam đã tiêu diệt gọn một đại đội lính Mỹ trên điểm cao, lập nên
truyền thống “Quảng Nam trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”.
– Trận Vạn
Tường (18 – 8 – 1965, Quảng Ngãi) đánh bại cuộc hành quân xâm lược lớn của một
vạn quân viễn chinh Mỹ, đánh thiệt hại gần 1.000 tên Mỹ
– Mùa khô
1 (11/1965 – 3/1966) đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của 25 vạn
quân Mỹ, 3 vạn quân Đồng Minh và 50 vạn quân VNCH
– Chiến
dịch Plâyme (19/10 – 26/11/1965), đã tiến công vây điểm, diệt viện, nhằm mở
rộng vùng giải phóng, đẩy mạnh chiến tranh giải phóng.
– Mùa khô
2 (10/1966 – 4/1967) đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ 2 của 45 vạn
quân Mỹ, 50 vạn quân VNCH, mà tiêu biểu là cuộc hành quân Giôn –xơn – xi – ti,
tiêu diệt 11.000 tên , làm thất bại âm mưu của Mỹ, hòng tiêu diệt bộ chỉ huy
Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
– Cuộc
tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân Mậu Thân (30 – 1 – 1968) đã đánh bại chiến
lược “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ. Trong 55 ngày đêm, quân đội Nhân Dân Việt
Nam,quân Giải phóng miền Nam đã tiêu diệt 20 vạn quân đối phương,trong đó có 7
vạn quân Mỹ, phá hủy 3400 máy bay các loại, 500 xe quân sự, 4000 khẩu pháo,
giải phóng 160 vạn dân thoát khỏi bộ máy kìm kẹp của Mỹ, VNCH, vùng giải phóng
được mở rộng.
– Chiến
thắng đường 9 Nam Lào (31 – 3 – 1971) và Đông Bắc Campuchia, ta đã đánh bại 2
cuộc hành quân “Lam Sơn 719” do quân đoàn I QLVNCH,quân Mỹ tổ chức và “Toàn
Thắng” (1 – 1971) do quân đoàn III QLVNCH,Mỹ tiến hành, làm thất bại một bước
quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ.
– Chiến
cuộc xuân-Hè 1972, diễn ra tại Quảng Trị,Kon Tum và Bình Long-An Lộc.Đây là năm
ác liệt nhất cuộc chiến tranh tại Việt Nam với những thiệt hại nặng nề từ các
bên tham chiến bao gồm thương vong về quân số và dân thường.Riêng phía cách
mạng đã tuyên bố họ loại khỏi vòng chiến đấu 50 vạn quân đối phương(điển hình
là tiêu diệt và làm tan rã sư đoàn 22 BB VNCH,Đánh thiệt hại nặng các sư đoàn 3,5,7
BB VNCH,…) giải phóng một vùng rộng lớn với 6 triệu dân
– Trận
“Điện Biên Phủ trên không” (18 – 29/12/1972), 12 ngày đêm đập tan cuộc tập kích
chiến lược bằng B52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh miền Bắc. Quân
dân Bắc Việt Nam đã bắn rơi 81 máy bay các loại trong đó có 34 máy bay B52 và 5
chiếc F.111, làm cho Mỹ phải chịu kí hiệp định có lợi cho Cách mạng.
– Cuộc
tổng tấn công và nổi dậy mùa xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí
Minh tấn công Sài Gòn lịch sử trong suốt 55 ngày đêm Quân đội NDVN,Quân GPMN và
các lực lượng du kích nổi dậy đã tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ QLVNCH, gồm 1
triệu 351.000 quân, với đầy đủ những trang bị hiện đại của Mỹ,kéo theo đó là sụ
sụp đổ toàn bộ hệ thống chính quyền Việt Nam cộng hòa,đất nước được thống
nhất..
Từ đây,
non sông thu về một mối. Nhân dân cả nước thực sự làm chủ vận mệnh của mình,
cùng nhau xây dựng lại cuộc sống mới, cùng nhau phấn đấu thực hiện 2 nhiệm vụ
chiến lược – xây dựng CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam thân yêu.
Một vài số
liệu đáng chú ý trong chiến tranh Việt Nam:
* Ở miền
Nam : Cách mạng đã đập tan 4 chiến lược chiến tranh xâm lược của 5 đời Tổng
thống Mỹ.
– Diệt và
loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1 triệu quân VNCH, giết và làm bị thương 905.537
quân Mỹ và Đồng Minh.
– Thu và
phá hủy hơn 46.500 máy bay các loại, hơn 13.000 khẩu pháo, 38.000 xe tăng, xe
bọc thép, 10.000 tàu, xuồng chiến đấu.
* Ở miền
Bắc : Đánh thắng 2 cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ (thời Giôn – xơn 8/1964 –
11/1968 và thời Ních – xơn 4/1972 – 1/1973).
– Bắn rơi
4181 máy bay gồm 48 kiểu hiện đại nhất, trong đó có 68 B52 ; 13 F111, diệt và
bắt sống hàng ngàn giặc lái, 271 lần bắn cháy và bắn chìm tàu chiến, tàu biệt
kích địch.
III- TRONG 21 NĂM KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ (1954 - 1975), THEO THỐNG KÊ SƠ BỘ CỦA
BỘ LAO ĐỘNG, THƯƠNG BINH XÃ HỘI THÁNG 10-1993 CON SỐ HY SINH VÀ THIỆT HẠI CỦA
NHÂN DÂN TA NHƯ SAU:
1,1 triệu
liệt sĩ;
600.000
thương bệnh binh;
Hiện còn
300.000 người mất tích;
Gần
2.000.000 dân bị địch giết hại;
2.000.000
người tàn tật;
2.000.000
người bị nhiễm hóa chất độc (khoảng 50.000 trẻ em dị dạng);
Số người
bị Mỹ – ngụy bắt và cầm tù, chưa tổng hợp được.
Lịch sử
ĐCSVN, tập II, tr.736
NDVN, ngày
23/3/08
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nhận xét