A. MỞ ĐẦU
So với luật pháp trung cổ phương Đông,
luật pháp phong kiến Trung Quốc tương đối phát triển. Việc nghiên
cứu vấn đề pháp luật có ý nghĩa lớn trong việc quản lý, giữ gìn trật tự xã hội. Vì vậy tìm hiểu về
pháp luật phong kiến Trung Quốc, một nước không chỉ rộng lớn về địa lý mà còn
có một nền văn hóa, lịch sử lâu đời và dược coi là cái nôi của nền văn minh
phương Đông. Với ý nghĩa đó em đã chọn đề tài: “Phân tích đặc
trưng cơ bản của pháp luật phong kiến Trung Quốc” làm bài tập học kỳ.
B. NỘI DUNG
I. Cơ sở hình thành, phát triển và
nguồn của pháp luật phong kiến Trung Quốc.
Pháp
luật phong kiến là hệ thống các quy tắc xử sự chung do giai cấp thống trị đặt
ra (Vua), thể hiện ý chí và nhằm bảo vệ lợi ích, địa vi và quyền thống trị của
địa chủ, quý tộc, thiết lập và giữ gìn trật tự xã hội phong kiến.
1. Cơ sở hình thành và phát triển của
pháp luật phong kiến Trung Quốc.
Nhà nước và pháp luật là hai hiện
tượng quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng. Pháp luật ra đời cùng với sự xuất hiện của nhà nước, đó là một
điều tất yếu khách quan. Nếu nhà nước không có pháp luật thì xã hội không có kỷ
cương, trật tự; Nếu pháp luật không phù hợp với hoạt động, tổ chức của nhà nước
thì pháp luật sẽ không có hiệu lực. Do đó cơ sở hình thành và phát triển của pháp
luật cũng dựa trên cơ sở hình thành và phát triển của nhà nước.
- Cơ sở kinh tế: Chế độ sở hữu ruộng
đất đóng vai trò chủ đạo và sự tồn tại của công xã nông thôn, tạo nên cơ sở vật
chất của nhà nước quân chủ chuyên chế trung Quốc.
-
Cơ sở chính trị - xã hội: Giai cấp thống trị xã hội chủ yếu là các địa chủ
phong kiến (trung và đại địa chủ)
-
Cơ sở tư tưởng: Học thuyết chính trị Nho giáo luôn là hệ tư tưởng thống trị
xuyên suốt quá trình phát triển của pháp luật phong kiến Trung Quốc.
2. Nguồn của pháp luật phong kiến
trung Quốc.
Pháp luật phong kiến Trung Quốc có 5
loại nguồn sau:
-
Lệnh: Là chiếu chỉ của Hoàng đế ban ra và có hiệu lực tuyệt đối, không ai được
làm trái.
- Luật: Những quy định về chế độ ruộng đất, sản xuất nông nghiệp, chăn
nuôi, thương nghiệp, tô thuế…
- Cách: những cách thức hoạt động, tổ chức của quan lại
- Thức: Thể thức có liên quan đến việc khám nghiệm, tra hỏi, xét xử
những người vi phạm luật pháp nhà nước…
-
Lệ: Những án lệ.
II. ĐẶC TRƯNG CỦA PHÁP
LUẬT PHONG KIẾN TRUNG QUỐC.
1. Pháp luật phong
kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa lễ và hình
Lễ là nguyên tắc xử sự của con người thuộc các đẳng cấp khác nhau trong các
quan hệ xã hội. Lễ là nội dung trọng tâm của nho giáo. Lễ giáo phong kiến xác
lập và củng cố mối quan hệ tam cương, ba mối quan hệ cơ bản trong xã hội, quan
hệ vua tôi, quan hệ cha mẹ – con cái, quan hệ chồng -vợ. Đó là trật tự của xã
hội phong kiến. Hình là hình phạt hay chính là pháp luật. Trong xã hội phong
kiến Trung Quốc “hình” được áp dụng phổ biến để xử phạt những người vi phạm
luật, lệ. Điều này thể hiện sự hà khắc, dã man của pháp luật phong kiến Trung
Quốc nói riêng và pháp luật phong kiến phương Đông nói chung.
Cũng theo Tuân Tử thì “Lễ là cái phận lớn của điển pháp, cái kỷ
cương của quân loại”, thì lễ cũng chính là những quy tắc tiết chế hành vi của
nhà cầm quyền. Trong khi pháp luật (hình phạt) hướng tới người dân để cai trị
họ thì lễ lại hướng về tiết chế hành vi của nhà nước. Cho nên kinh lễ có câu
“Hình bất thướng đại phu, lễ bất há thứ dân” nghĩa là như vậy
Từ thời nhà Hán, đặc biệt là từ đời Hán Vũ Đế, ông chủ trương sử dụng nho giáo
để quản lí nhà nước. Nội dung trọng tâm của nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ
đạo trong xã hội phong kiến. Lễ kết hợp với hình luật để chủ trương xây dựng và
thực thi pháp luật. Trong mối quan hệ giữa lễ và hình thì các nguyên tắc của lễ
làm sự chỉ đạo, còn lễ mượn sự cưỡng chế của hình để duy trì. Thực hiện chủ
trương kết hợp lễ và hình, nhà nước phong kiến Trung Quốc áp dụng các nguyên
tắc
+ Đức
chủ hình phụ: Lấy đức làm chủ yếu, còn hình phạt là phụ.
+ Lễ pháp tịnh dụng: Lễ và pháp cùng áp dụng ngang nhau.
Nhà nước phong kiến Trung
Quốc còn sử dụng nguyên tắc “tam cương ngũ thường” của nho gia làm chủ đạo. Tam
cương là nội dung cơ bản trong giáo lí của đạo nho và được pháp luật bảo vệ
bằng việc quy định 10 trọng tội (thập ác). Trong đó các tội trái với đạo hiếu
có 6 tội( ác nghịch, bất đạo, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn). Các tội
bất trung với hoàng đế phong kiến có 4 tội (mưu phản quốc, mưu đại nghịch, mưu
phản loạn, đại bất kính). Trong quan hệ hôn nhân theo giáo lí đạo Nho và cũng
là theo luật pháp quy định, người chồng có quyền li dị vợ nếu người vợ chỉ cần
phạm một trong 7 điều sơ suất (thất suất): không con, dâm dật, không phụng sự
cha mẹ chồng, miệng lưỡi nói năng lung tung, trộm cắp, ghen tuông, ác tật. Luật
pháp qua các đời Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều “nhất chuẩn hồ lễ”.
Hay nói cách khác luật pháp luôn luôn củng cố và bảo vệ lễ giáo phong kiến,
trật tự của đẳng cấp của xã hội phong kiến, chính thể quân chủ chuyên chế phong
kiến
Tuy nhiên, việc dùng lễ đã gây ra việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Xuất
hiện hiện tượng “tội đồng luận dị” (tội giống nhau nhưng lí luận khác đi dẫn
đến hình phạt cũng khác nhau). Các quan lại tùy tiện trong cách xét xử, có điều
kiện phát sinh tiêu cực. Điển hình là Đổng Trọng Thư chủ trương dùng sách “Xuân
thu” của Khổng Tử để làm cơ sở cho việc xử án. Đây là một hạn chế của pháp luật
phong kiến.
2. Pháp
luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa Đức trị với Pháp trị và hòa đồng
giữa quy phạm pháp luật với quy phạm đạo đức.
Để cại trị dân giai cấp thống trị có trăm ngàn biện pháp. Trong xã hôi phong
kiến Trung Quốc đã tồn tại hai quan điểm đối lập nhau đó là: Quan điểm của pháp
gia và quan điểm của nho gia. Hai quan điểm này như hai sợi chỉ đỏ xuyên
suốt quá trình tồn tại và phát triển của xã hội phong kiến Trung Quốc. Quan
điểm của hai trường phái này được thể hiện tương ứng qua hai học thuyết pháp trị
và đức trị.
-
Nội dung của học thuyết pháp trị:
+ Pháp: Phải có hệ thống pháp luật rõ ràng, minh
bạch, hợp lí, ổn định, ban hành cho khắp dân chúng biết; phải thi hành pháp
luật nghiêm chỉnh, triệt để, chí công vô tư” không khoan dung người mình yêu,
không khắc nghiệt người mình ghét.
+ Thế: Ở đây thuyết pháp trị sử dụng nội dung
“chính danh” của nho giáo, theo đó vua phải làm tròn phận sự của mình, các quan
lại, dân chúng tùy theo danh phận của mình mà làm tròn công việc của mình.
Trong đó chỉ có vua mới là người có thể cai trị thiên hạ
+ Thuật: phương pháp, thủ đoạn cai trị, nó bao
gồm hai nội dung: bổ nhiệm và khảo thạch “kiểm tra, thưởng phạt)
Ở Trung quốc, tư tưởng
pháp trị được biểu hiện đầu tiên trong một câu nói của Quản Trọng- tướng quốc
của Tề Hoàn Công vào khoảng đầu thời Xuân Thu: “vua-tôi, trên-dưới, sang- hèn
đều tuân theo pháp luật cả, thế gọi là đại trị”.
- Nội dung của học
thuyết đức trị:( là nội dung chủ yếu của nho giáo)
Để có một trật tự xã hội, Khổng Tử
nhấn mạnh năm chữ “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” và coi là năm thứ cần thiết cho
một con người nhất là khi con người đó là bậc quân tử, tức là người có sứ mệnh
“trị quốc, bình thiên hạ” hay còn gọi “Đức trị” là khái niệm dùng để chỉ những
quan điểm dùng đạo đức và luân lý để điều chỉnh xã hội và nhà nước mà Khổng Tử
thường răn dạy các bậc quân tử. Cũng theo Khổng Tử,
đức trị muốn đạt hiệu quả cao phải đi đôi với lễ trị. Nghĩa là đạo đức sẽ được
củng cố bằng những lễ nghi, cách nói năng, ăn mặc, cư xử trong cuộc sống.
► Đức trị đã trở thành hệ tư tưởng có
ảnh hưởng lớn, là công cụ tinh thần để bảo vệ cho nền phong kiến suốt hai nghìn
năm ở Trung Quốc.
Từ đời Hán trở đi, Đức trị giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống xã hội cũng như trong chính sách cai trị của nhà nước. Đến thời
Đường, Đức trị của nho giáo còn được bổ sung thêm thuyết Nhân trị của phật
giáo. Nhân trị ở đây là lòng từ bi, cứu nhân độ thế. Đến đời Tống, Minh đạo đức
nho giáo suy yếu dần, đến cuối đời Thanh, nho giáo và tư tưởng đức trị cũng bị
phê phán kịch liệt.
Tóm lại, trong suốt thời
kì phong kiến trung Quốc đức trị và pháp trị đã cùng tồn tại với nhau, tương hỗ
nhau. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn khác nhau thì mức độ ảnh hưởng của hai học
thuyết này có khác nhau. Nhìn chung thì nho giáo giữ vị trí thượng tôn, pháp
trị vẫn được áp dụng nhưng không thể hiện một cách công khai, pháp trị trong
một chừng mực nhất định đã được lồng ghép và hòa trộn vào đức trị. Pháp trị hay
đức trị đều cùng một bản chất, đó chỉ là những biện pháp cai trị khác nhau, chỉ
là sự khác nhau về việc áp dụng pháp luật.
3. Đánh giá chung và sự ảnh hưởng của pháp luật phong kiến Trung Quôc.
Pháp
trị của phong kiến Trung Quốc dù đã thể hiện được sự tiến bộ trong cách quản lý
trật tự xã hội, tuy nhiên nó vẫn còn những hạn chế như nó khá hà khắc và tàn
bạo, các hình luật còn rất dã man.
Đức
trị, đã thể hiện sự nhân đạo hơn pháp trị tuy nhiên những quy định của nó còn
khá cổ hủ, nó không có sự nghiêm khắc trong thực thi pháp luật, dễ mang lại sự
tự do, lộng quyền cho các quan lại. Thực hành đức trị phong kiến trung Quốc đã
đưa lợi ích và trật tự xã hội của nó trở thành những quy tắc đạo đức hàng ngày
của mọi người.
Pháp
luật phong kiến Trung Quốc dù là đức trị hay pháp trị thì nó luôn củng cố, bảo
vệ lễ giáo phong kiến, trật tự đẳng cấp phong kiến, chính thể quân chủ chuyên chế
phong kiến. Đức trị hay pháp trị đều cùng một bản chất. Đó chỉ là những biện
pháp cai trị khác nhau chỉ là sự khác nhau về việc áp dụng pháp luật.
Mặc dù vẫn còn những hạn chế nhất định
nhưng pháp luật phong kiến Trung Quốc với những tư tưởng tiến bộ đã góp phần
giữ gìn và bảo vệ trật tự xã hội tương đối ổn định. Mặt khác Trung Quốc là một nước
lớn có nền văn minh phát triển sớm và thường xuyên chinh phục, đồng hóa các
quốc gia lân cận nên văn hóa Trung quốc có ảnh hưởng lớn đến các
nước phương Đông như: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam.
Đặc biệt, do
có nhiều nét tương đồng mà các nhà làm luật ở các triều đại phong kiến Việt
Nam đã vận dụng nhiều hình thức pháp lí và chế định pháp luật
phong kiến Trung Quốc vào thể pháp luật của
mình, đặc biệt là từ nhà Lê trở đi.
C. KẾT LUẬN
Pháp luật phong kiến Trung Quốc Với những đặc trưng cơ
bản của mình
không những có tác dụng quan
trọng trong xã hội phong kiến Trung Hoa mà
còn ảnh hưởng đến luật
pháp của các quốc gia khác trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc tìm hiểu về pháp
luật phong kiến Trung Quốc có ý nghĩa lí luận và thực tiễn quan trọng. Bởi đó
chính là cơ sở, nền tảng quan trọng để xây dựng và hoàn thiện pháp luật Trung
Quốc trong tương lai.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc,
Nxb Văn hóa thông tin – Hà Nội – 1994, Ngô Văn Chính (chủ biên).
2.
Lịch sử thế giới trung đại, Nxb Giáo
dục Hà Nội, 2006, Nguyễn Gia Chu (chủ biên).
3.
Lịch sử các học thuyết chính trị trên
thế giới, Nxb Văn hóa - Thông tin Hà Nội - 2001
Young be a sưu tầm,chỉnh sửa:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nhận xét