Thứ Tư, 27 tháng 2, 2013

Đánh giá hậu quả chiến tranh thế giới thứ nhất(1914-1918)


I.Mở đầu:
       Quan hệ quốc tế là quan hệ chính trị giữa nhà nước này với nhà nước khác, là sự tổng hợp những mối quan hệ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của các chủ thể hành động trong cộng đồng quốc tế, là họa động chính trị quốc tế mà các nước và các tập đoàn chính trị tham gia, là tổng hợp các chế định và hình thức hoạt động quốc tế.
   Nhìn lại lịch sử của nhân loại, chúng ta thấy rằng ngay từ khi giai cấp và nhà nước hình hành trên thế giới thì giữa các quốc gia đã có những mối quan hệ với nhau, và mối quan hệ giữa các nước luôn biến động trong các thời kì khác nhau. Trong đó thời kỳ cận đại để lại một dấu ấn rất lớn đối với lịch sử quan hệ quốc tế khi trong thời kỳ này đã diễn ra nhiều sự kiện có tác động lớn đến sự phát riển của thế giới, cũng như các mối quan hệ quốc tế lúc bấy giờ như các cuộc cách mạng tư sản, cách mạng công nghiệp, sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản khoa học, Quốc tế I…, đặc biệt cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc với những hậu quả  lớn vào cuối thời kỳ cận đại và sự thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga vào đầu hời hiện đại đã có những tác động rất lớn đến tình hình các nước trên thế giới và mối quan hệ giữa các nước trong thời kỳ này, một mối quan hệ đa dạng và phức tạp.
II. Nội dung
II.1 Đánh giá hậu quả của chiến tranh thế giới thứ nhất đến quan hệ quốc tế
1.1 Bối cảnh quốc tế trước chiến tranh
Vào thời cận đại, quan hệ giữa các nước ngày càng mở rộng và trở nên phức tạp hơn. Đó là quan hệ giữa các nước tư bản thực dân với các nước thuộc địa và phụ thuộc, quan hệ giữa các nước đế quốc với nhau. Quan hệ sau là chủ yếu và bắt nguồn xoay quanh vấn đề thuộc địa, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc “già” và “trẻ”. Sang thời kì  đế quốc chủ nghĩa, mối quan hệ này càng trở nên phức tạp, gay gắt hơn dẫn tới các cuộc chiến tranh cục bộ đầu tiên, rồi tới chiến tranh thế giới thứ nhất.
Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, do quy luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản đã làm thay đổi tương quan so sánh lực lượng của chủ nghĩa đế quốc trên thế giới. Thời gian này việc phân chia thế giới đã xong, không còn chỗ trống như trong các thế kỉ trước đó nữa. Đây chính là nguyên nhân làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc ngày một sâu sắc, đã đẩy các nước vào những cuộc chiến tranh đế quốc đầu tiên.
Bên cạnh đó, các nước đế quốc tăng cường các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm thuộc địa làm cho mâu thuẫn của chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt trong đó nổi bật nhất là mâu thuẫn Anh – Đức.
Đức lúc bấy giờ đã chuyển hướng chính sách đối ngoại, đẩy mạnh tăng cường sức mạnh quân sự nhằm thực hiện kế hoạch chinh phục Châu Âu và thế giới của Thủ tướng Đức. Mũi nhọn trong chiến lược này là giải quyết mâu thuẫn với  nước Anh đang ngày một gay gắt. Vì vậy lúc bấy giờ Anh buộc phải liên minh với Áo chứ không thể thực hiện chính sách cô lập như trước đây nữa.
Đức đã thực hiện dần các cuộc chiến tranh cục bộ để thử nghiệm, tăng cường sức mạnh và uy tín của mình nhằm mở rộng cuộc chiến với quy mô lớn hơn. Đức đã gây 2 cuộc chiến với Marốc. Tuy có giành được những hiệu quả nhất định nhưng cũng chính trong tình thế này đã đẩy Anh đứng về phía Nga, Pháp bằng cách ký hiệp ước với Anh – Nga (1907).
Trước khi phát động một cuộc chiến tranh với quy mô thế giới, các nước đế quốc (trực tiếp hay gián tiếp) đã gây ra những cuộc khủng hoảng và những cuộc chiến tranh cục bộ ở Bancăng và Bắc Phi, khiến cho quan hệ quốc tế luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng.
à Mục đích của chiến tranh thế giới thứ nhất ngoài mục đích xâm chiếm thuộc địa, để phân chia thị trường thế giới còn nhằm mục đích là củng cố chế độ tư bản chủ nghĩa, với âm mưu thâm độc là lợi dụng chiến tranh để đàn áp phong trào công nhân và phong trào giải phóng dân tộc ngày càng đang cao vào đầu thế kỉ XX.
1.2 Diễn biến của chiến tranh
Chiến tranh thế giới thứ nhất là cuộc đụng đầu lịch sử lớn nhất trong thời kỳ cận đại. Đây là cuộc chiến tranh khốc liệt tàn bạo, kéo dài trong suốt 4 năm chia làm 2 giai đoạn lớn:
Giai đoạn I (1914 – 1916):
Đức muốn dùng chính sách tấn công chớp nhoáng đánh bại Pháp, tiến tới tiêu diệt Nga. Tuy nhiên, do Nga đã điều động quân rất sớm, vì vậy khi Đức say sưa chiến thắng, bận đánh chiếm Bỉ và tấn công Pháp thì Nga bất ngờ tấn công Đức ở Đông Phổ. Điều này buộc quân đội Đức phải cho quân đến mặt trận phía Đông để đánh nhau với quân Nga. Quân Đức buộc phải dàn quân cả 2 mặt trận Pháp và Đông Phổ nên không thể tập trung quân thực hiện chiến lược chớp nhoáng kết thúc chiến tranh như là dự kiến ban đầu.
Chiến trường chính của chiến tranh chủ yếu ở Châu Âu lôi kéo 38 nước tham gia. Thổ Nhĩ Kỳ và Bungari đứng về phía Đức, Áo, Hung, Italia và Rumani đứng về phe hiệp ước (Nga, Anh, Pháp). Nhật Bản lợi dụng các đế quốc tham chiến ở Châu Âu cũng tuyên chiến với Đức với ý đồ nhằm chiếm thuộc địa Đức ở Thái Bình Dương và Trung Quốc mở rộng thế lực ở Viễn Đông và Trung Quốc. Giai đoạn này mặc dù 2 bên đã tung ra những lực lượng quân hùng hậu, phương tiện chiến tranh hiện đại nhưng vẫn chưa phân chia thắng bại, và đều chưa thiệt hại lớn về người và của, nền kinh tế kiệt quệ. Điều này đã tạo nên tình thế cách mạng ở Nga. Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của chủ nghĩa đế quốc. Lênin và Đảng Bônsêvích lãnh đạo giai cấp vô sản, tập hợp lực lượng quần chúng nhằm biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng.
Giai đoạn II (1917 – 1918)
Sau 1917, nhằm cắt đứt con đường tiếp tế của phe Hiệp ước, Đức đã sử dụng phương tiện chiến tranh mới là tàu ngầm. Tàu ngầm của Đức tấn công phe Hiệp ước và cũng tấn công luôn tàu buôn của Mỹ. Nắm lấy cơ hội này, tháng 4 – 1917, Mỹ chính thức tuyên chiến với Đức lấy lý do là Đức đã vi phạm quyền tự do thương mại trên biển. Cán cân lực lượng đã nghiêng hẳn về phe Hiệp ước khi có Mỹ tham chiến.
Lúc này ở Nga có cách mạng tháng 2 – 1917 bùng nổ dưới khẩu hiệu “đả đảo Nga hoàng”, “đả đảo chiến tranh”, vua Nicôlai II đã bị phế truất, chính phủ lâm thời được thành lập nhưng vẫn theo đuổi chiến tranh.
Sau cách mạng tháng 10 – 1917 giành thắng lợi, nước Nga tuyên bố rút ra khỏi chiến tranh và ký Hiệp ước Brétlitốp với Đức ngày 3 – 3 – 1918. Đức rảnh tay ở mặt trận phía Đông dồn quân về mặt trận phía Tây và dành được một số thắng lợi. Tháng 7 – 1918, quân Mỹ trực tiếp đổ bộ sang Châu Âu (65 vạn) trực tiếp tham chiến, quân Anh, Pháp nhân cơ hội đó phản công lại Đức. Đức liên tiếp thất bại buộc rút khỏi lãnh thổ Pháp, Bỉ. Trong khi đó các Đồng minh khác của Đức cũng thất bại nặng nề và buộc phải đầu hàng phe hiệp ước. Bungari kí kết đầu hang 29 – 9; Thổ Nhĩ Kỳ 30 – 10; Áo – Hung 3 – 11.
Trong khi đó, cách mạng Đức bùng nổ và giành được thắng lợi ở Béclin (9 – 11), cách mạng Đức bùng nổ. Vua Đức Vinhem II chạy sang Hà Lan. Nước Đức buộc phải chấp nhận đầu hang. Ngày 11 – 11 – 1918, Hiệp ước đình chiến giữa Đức và phe Hiệp ước được kí kết ở rừng Compienhơ gần Paris.
1.3 Hậu quả của chiến tranh thế giới I đến quan hệ quốc tế
1.3.1 Hậu quả của chiến tranh thế giới I
Cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất đã lôi cuốn 70 triệu người ở tất cả các nước tham chiến, làm cho 10 triệu người bị chết (trong đó: Pháp – 1.386.000, Anh – 900.000, Nga – 2.300.000, Xecbia – 700.000, Italia – 500.000, Rumani – 340.000, Đức – 1.600.000, Áo – Hung – 900.000, Thổ Nhĩ Kỳ - 440.000), 19 triệu người bị thương và 3,5 triệu người bị tàn phế. Những thiệt hại về vật chất do cuộc chiến tranh gây ra là rất lớn (số tiền các nước chi cho cuộc chiến tính theo triệu đôla là: Nga – 7.658, Pháp – 11.208, Anh – 24.143, Mĩ – 17.337, Đức – 19.884 và Áo – Hung – 5.438). Có rất nhiều làng mạc, thành phố, nhà máy, hệ thống đường sắt, cầu cống bị phá hủy. Toàn bộ nền kinh tế của các nước Châu Âu bị tê liệt, số tiền mắc nợ nước ngoài tăng vọt. Trong những năm 1913 – 1920 sản lượng công nghiệp chế tạo ở Châu Âu giảm 23%, việc đầu tư tư bản của Anh ra nước ngoài từ 1914 – 1918 giảm 50%, thu nhập đầu người trong thời kì chiến tranh ở các nước Châu Âu năm 1920 thấp hơn năm 1913.
Trong số các nước tham chiến, chỉ có Mĩ là thu được món lời khổng lồ nhờ buôn bán vũ khí cho cả hai bên tham chiến (24 tỉ đô la), vươn lên đừng đầu thế giới về kinh tế tài chính. Mĩ là chủ nợ của nhiều nước trên thế giới, riêng ở Châu Âu, Mĩ cho Anh vay 4 tỉ đôla, Pháp – 3 tỉ đôla và 17 nước khác – 3 tỉ đôla.
Quần chúng lao động ở chính quốc cũng như thuộc địa là những người phải gánh chịu tất cả gánh nặng của mọi tai họa do cuộc chiến tranh gây nên. Về một mặt nào đó do chiến tranh, tư sản dân tộc ở một số nước thuộc địa và phụ thuộc lại có điều kiện phát triển vì không chịu sự chi phối nặng nề, chặt chẽ của tư bản chính quốc.
Sau khi cuộc đại chiến lần thứ nhất kết thúc, các nước thắng trận đã họp hội nghị hòa bình tại Vécxai (cách thủ đô Pari của Pháp 18 km) nhằm phân chia lại thế giới và thiết lập một trật tự hòa bình, an ninh mới sau chiến tranh.
1.3.2 Đánh giá tác động của hậu quả chiến tranh thế giới I đến quan hệ quốc tế
Tác động thứ nhất: Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, đã mở ra một thời kì mới trong quan hệ quốc tế. Kết cục chiến tranh đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới, cuộc chiến tranh này đã làm các cường quốc Châu Âu, kể cả nước thắng trận hay bại trận đều suy yếu, trong khi đó ngay sau cuộc chiến tranh này Mĩ và Nhật Bản đã trỗi dậy mạnh mẽ.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, vị thế của các cường quốc Châu Âu bị suy yếu cả các nước thắng trận lẫn bại trận. Hai nước đế quốc già là Anh và Pháp tuy chiến thắng nhưng kinh tế bị kiệt quệ và trở thành con nợ của Mĩ. Nước  Ý một đồng minh yếu trong chiến tranh bị xâu xé bởi cuộc chiến tranh gay gắt trong nước và khủng hoảng kinh tế. Ba nước đế quốc Nga, Đức, Áo Hung lần lượt sụp đổ. Thắng lợi của hai cuộc cách mạng ở Nga năm 1917 đã đẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn của đế quốc Nga. Đế quốc Đức và Áo Hung thì bị bại trận, bị bại trận, tàn phá nặng nề và những cuộc cách mạng bùng nổ đã đẩy nước này vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Trong khi các cường quốc ngoài châu Âu không bị chiến tranh tàn phá đã nhanh chóng vươn lên vượt các nước tư bản tây Âu. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Mĩ trở thành chủ nợ của các cường quốc Châu Âu(Châu Âu nợ Mĩ 10 tỷ đô la), năm 1919 hàng hóa của Mĩ xuất sang Châu Âu lên tới gần 8 tỷ đô la, vốn đầu tư dài hạn ra nước ngoài đạt 6,4 tỷ đô la. Mĩ trở thành nước có dự trữ vàng lớn nhất thê giới(chiếm khoảng 1/3 số vàng của thế giới).Trong khi đó, Nhật Bản cũng có sự phát triển nhanh chóng, trong thời gian từ năm 1914 đếnnăm 1919, sản lượng công nghiệp của Nhật tăng gấp 5 lần, riêng sản lượng công nghiệp chế tạo máy móc và hóa chất tăng 7 lần, thanh toán mậu dịch từ năm 1915 đến năm 1920 dư 2,2 tỷ yên, hàng hóa Nhật Bản tràn ngập các thị trường Châu Á, Nhật Bản thành chủ sự của các đồng minh Châu Âu. So với trước chiến tranh thế giới thứ nhất sự tương quan lực lượng giữ các cường quốc đã trở nên rõ rệt, theo chiều hướng ngày càng bất lợi cho các nước tư bản châu Âu vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới tư bản chủ nghĩa trước đây.
Tác động thứ 2: Tương quan về lực lượng có sự thay đỗi đã đặt cơ sở nền tảng cho sự thiết lập một trật tự thế giới mới sau chiến tranh, trật tự Vecxai – Oasinhton:
Để giải quyết những vấn đề do chiến tranh đặt ra, các hội nghị hòa bình đã được triệu tập. Hệ thống hòa ước Vecxai và sau là hệ thống hiệp ước Oasintơn đã được kí kết nhằm tổ chức lại thế giới sau chiến tranh, để phù hợp với tương quan lực lược mới.
Theo sự thỏa thuận giữ các nước thắng trận, ngày 18-1-1919, tại Vécxai (ngoại ô Pari của Pháp)đã  diễn ra hội nghị hòa bình để phân chia lại thế giới và thiết lập một trật tự hòa bình, an ninh mới sau chiến tranh. Hội nghị được tiến hành trong bối cảnh thế giới có nhiều chuyển biến to lớn do kết quả của cuộc chiến tranh thế giới mang lại:
+ Thứ nhất: Đó là sự bùng nổ và thắng lợi của cách mạng XHCN tháng Mười Nga, sự thiết lập của nhà nước XHCN nghĩa đầu tiên trên thế giới. Vấn đề đặt ra đối với các nước tư bản: là làm sao tiêu diệt được nước Nga Xô Viết để tiếp tục duy trì sự yên ổn của chủ nghĩa tư bản.
+ Thứ hai: do hậu quả của chiến tranh thế giới và tác động của cách mạng tháng Mười, một cao trào cách mạng đã bùng nổ và dâng lên mạnh mẽ suốt nawm1918- 1923 ở châu Âu lẫn các nước thuộc địa và phụ thuộc. Tuy khống chế và tranh giành nhau sau chiến tranh, các nước đế quốc vẫn có một đặc điểm chung là tìm cách đàn áp và chống lại phong trào cách mạng.
+ Thứ ba: tương quan lực lược giữ các nước tư bản sau chiến tranh đã thay đổi căn bản.
Nội dung: 3  nội dung chính:
+ Công ước thành lập hội quốc liên là văn kiện đầu tiên được kí kết cùng với hiến chương của hội, lúc đầu có 44 nước tham gia, trong đó Anh, Pháp, Italia và Nhật bản có tiếng nói quyết định, và là thành viên thường trực của hội đồng.
+ Đối với “ vấn đề Nga”, các cường quốc đưa ra nhiều biện pháp chống chính quyền Xô Viết và ngăn chăn ảnh hưởng của cách mạng Nga.
+ Hòa ước Vécxai kí với Đức ngày 26-6-1919 là văn kiệt quan trọng nhất của hội nghị, hòa ước khẳng định nước phải chịu trách nhiệm về tội ác chiến tranh, nước Đức buộc phải chấp nhận.
à Kết luận: Các văn kiện ký kết tại hội nghị Vecxai hợp thành hoàn ước Vecsxai phân chia lại thế giới sau chiến tranh. Hệ hống này tạo nên một nền hòa bình không công bằng, chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế. Hệ thống hòa ước càng khơi sâu thêm mâu thuẫn vốn có giữ các nước thắng trận và bại trận. Nó chỉ phản ánh sự hòa hoãn tạm thời giữ các nước đế quốc thắng trận. Mặc dù hội nghị này được mệnh danh là hội nghị hòa bình nhưng thực chất là các nước đế quốc thắng trận muốn thông qua hội nghị này tìm cách bóc lột các nước bại trận, chính điều này đã tạo ra những mâu thuẩn mới và là mầm mống của cuộc đại chiến thế giới sau này. Mặc dù hội nghị Vec xai được tổ chức vì quyền lợi của các nước thắng trận nhưng tất cả các nước thắng trận đều không thỏa mãn với kết quả hội nghị. Trước hết là Mĩ, sau là Nhật và Pháp.
Do không thỏa mãn những mục tiêu đặt ra, nên thượng viện Mĩ đã không phê chuẩn hiệp ước này và Mĩ đã rút ra khỏi Hội quốc liên nên Mĩ đã không bị lệ thuộc vào hệ thống này mà theo đuổi một ý đồ khác nhằm thiết lập địa vị ưu thế của Mĩ do đó đã dẫn đến hội nghị Oasintơn(từ 11-1921 đến 12-1922)với 9 nước tham dự Anh, Pháp, Mĩ, Italia, NB, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, và Trung Quốc, Hội nghị bàn về quan hệ quốc tế ở Thái Bình Dương, Trung Quốc, và vấn đề hạn chế vũ trang. Hội nghị đã kí 3 hiệp ước quan trọng:
+ Hiệp ước ngày 3-12-1921 giữu Mĩ, Anh, Nhật và Pháp đã thay thế hiệp ước đông minh Anh-Nhật(kí năm 1902 và gia hạn 1911)xác định việc duy trì nguyên trạng ở Thái Bình Dương, ngăn chặt sự bành trướng của Nhật ra các thuộc địa khác.
+  Hiệp ước 5 nước kí ngày 3-12-1921, giữ Anh, Mĩ, nhật, Pháp, Italia nhằm tạo thế quân sự bằng quân sự ở Thái Bình Dươn.
+  Hiệp ước 9 nước về Trung quốc do các nước tham dự hội nghị kí 6-12-1922, cam kết  “tôn trọng, độc lập, sự toàn vẹn lãnh thổ và hành chính của trung Hoa, xác định chính sách mở cử đối với Trung Quốc tức phủ nhận đặc quyền của bất cứ quốc gia nào vào Trung Hoa).
à Hội nghị Oa sin tơn hoàn toàn có lợi cho Mĩ, Mĩ được nâng địa vị hải quân ngang hàng với Anh, hạn chế sự bành trướng của Nhật ở Trung Quốc và Châu Á Thái Bình Dương. Mĩ đã làm được những gì mà hội nghị Vecxai chưa làm được bằng cách lập một khuôn khổ mới: một măt, làm xói mòn kết quả của hội nghị Vecxai, làm cho tác dụng thực tiễn của nó yếu đi. Mặt khác, tổ chức lại thế giới TBCN sau chiến tranh hoàn chỉnh hơn. Đó là hệ thống  hòa ước Vécxai – Oasintơn. Trật tự này hoàn toàn phục vụ cho lợi ích của các nước đế quốc thắng trận, chà đạp lên quyền lợi của các dân tộc, gây nên những mâu thuẫn sâu sắc giữ các nước đế quốc với gần 20 năm giữ hai cuộc chiến tranh thế giới(1919-1939).
Tác động thứ ba: Sau chiến tranh thế giới, thắng lợi của cách mạng thắng Mười Nga năm 1917 cũng tạo ra một chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. Chủ nghĩa tư bản không còn tồn tại như một hệ thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Sự ra đời và phát triển lớn mạnh của nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trở thành một thách thức to lớn đối với các nước tư bản chủ nghĩa. Đồng thời, đây cũng là thắng lợi trong thực tiễn của giai cấp công nhân, của chủ nghĩa Mác, đánh dấu sự thắng lợi to lớn của chủ nghĩa Mác- Lê Nin trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
 Nhận xét:
Như vậy, hậu quả của chiến tranh thế giới I đã có những tác động trực tiếp và gián tiếp tới quan hệ quốc tế lúc bấy giờ. Một mặt, trong quan hệ quốc tế thời kì này nổi cộm lên những mâu thuẫn trong nội bộ các nước đế quốc với tham vọng của các nước lớn luôn hoạt động khống chế và tranh giành nhau sau chiến tranh. Mặt khác, các nước đế quốc trong đó Anh, Pháp, Mĩ âm mưu bóp nghẹt thành quả Cách mạng tháng Mười, ngăn chặn làn sóng cộng sản. Đó là nguy cơ bên trong đẩy những căng thẳng trong quan hệ quốc tế dẫn tới một cuộc chiến tranh thế giới lớn thứ hai vào giữa thế kỉ XX.
       II.2 Đóng góp của cách mạng tháng Mười Nga đến quan hệ quốc tế:
2.1 Bối cảnh lịch sử trước cách mạng tháng Mười Nga – 19172.
1.1 Bối cảnh quốc tế:
Trước Cách mạng Tháng Mười năm 1917, quan hệ quốc tế giữa các quốc gia, các dân tộc dựa trên cơ sở sự thống trị ,sự bất bình đẳng.Những năm cuối của thế kỉ XIX đầu XX đã diễn ra nhiều cuộc chíên tranh như chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha ( 1898 ). Nhằm để giành giật thị trường của nhau và phân chia lại thế giới. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ. Năm 1914 , chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ.
2.1.2 Bối cảnh nước Nga:
Thực tiễn nước Nga năm 1917 cũng cho thấy, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là một cuộc cách mạng XHCNvĩ đại, đã bùng nổ do sự chín muồi của các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội. Là kết quả của sự phát triển CNTB Nga và CNTB thế giới trong thời kì ĐQCN
- Về kinh tế: cuối thế kỉ XIX đầu XX ở Nga CNTB đã phát triển nhanh chóng. Đầu XX Nga đã phát triển sang giai đoạn tư bản độc quyền. Tuy nhiên, những nhiệm vụ của Cách mạng dân chủ tư sản vẫn chưa được giải quyết.
Bên cạnh quan hệ sản xuất TBCN  thì quan hệ sản xuất phong kiến, nông nô vẫn tồn tại nặng nề.Sự phát triển của CNTB Nga đã làm cho các mâu thuẫn giai cấp trở nên chồng chéo và sâu sắc.
- Về chính trị: Nga là một nước quân chủ chuyên chế, quyền lực nằm trong tay Nga Hoàng. Tất cả các quyền tự do dân chủ bị thủ tiêu, nhân dân Nga không được hưởng một quyền lợi chính trị nào.
- Về xã hội: nước Nga là một nhà tù của các dân tộc. Nga Hoàng lại thực thi chính sách kì thị dân tộc đã làm cho mâu thuẫn dân tộc trỡ nên sâu sắc. Đầu thế kỉ XX, Nga là một thực thể kinh tế - chính trị - xã hội phức tạp, Nga hội tụ đầy đủ mâu thuẫn cơ bản của thời đại, nó đều lên đến đỉnh điểm và yêu cầu phải giải quyết : tư sản và vô sản, địa chủ phong kiến và nông dân…. Nhưng mâu thuẫn bao trùm là mâu thuẫn giữa nhân dân Nga với Đế quốc Nga Hoàng. Nước Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền ĐQCN.Việc nước Nga tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất là điều kiện khách quan, chất xúc tác làm cho những yếu tố mâu thuẫn nước Nga ngày càng phát triển. Lúc này ở Nga, Đảng Cộng Sản Bônsêvích được thành lập là đội tiên phong của giai cấp vô sản Nga.
Như vậy cuối thế kỉ XIX đầu XX Nga đã hội tụ đầy đủ điều kiện cho cuộc cách mạng diễn ra. Nó vừa mang tính đặc thù vừa mang tính phổ biến.
2.2 Diễn biến
Sau khi nước Nga trải qua cuộc Cách mạng dân chủ tư sản Tháng Hai năm 1917 và giành được thắng lợi đã lật đổ được chế độ Nga Hoàng chuyên chế thống trị nhân dân từ bao đời nay, Nga trở thành nước dân chủ.Tuy nhiên, cuộc Cách mạng Tháng Hai đã tạo nên một tình thế cách mạng đặc biệt ở Nga đó là sự tồn tại song song hai chính quyền: chính phủ lâm thời tư sản và các Xô viết đại biểu công nhân và binh lính.Hai chính quyền này đại diện cho lợi ích của các giai cấp khác nhau nên không thể cùng tồn tại, giải quyết vấn đề này chính là nhiệm vụ tiếp theo của cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga.
Chính phủ tư sản lâm thời sau khi thành lập, đã không thực hiện lời hứa của mình mà lại tiếp tục xô đẩy nhân dân vào cuộc chiến tranh Đế quốc.
       Đảng Bônsevich hoạt động công khai nhưng trong nội bộ Đảng lại có những quan điểm và nhận thức khác nhau. Cách mạng Nga đang đứng trước ngã ba đường.
       Ngày 3/4/1917, Lênin từ Thụy Sĩ về nước. Lênin đã đề ra sách lược cho cuộc cách mạng, đường lối để chuyến biến từ CMDCTS lên CMXHCN.
       Do tình hình thực tiễn của cách mạng từ tháng 4 đến tháng 7 nên Cách mạng diễn ra theo phương pháp hòa bình. Ngày 18/4, Bộ trưởng ngoại giao Miliucôp đã gửi công hàm cho các nước đồng minh cam kết tiếp tục đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi. Hàng vạn quần chúng nhân dân đã xuống đường biểu tình, cuộc biểu tình chứng tỏ nhân dân đã thấy rõ bộ mặt thật của chính phủ lâm thời.Đây là cuộc đụng độ đầu tiên của giai cấp tư sản và vô sản, vai trò của giai cấp vô sản ngày càng được khẳng định.
       Tháng 6/1917, Đại hội Xô Viết Nga lần thứ nhất đã diễn ra làm cho uy tín, vai trò của những người đã đi vào cuộc sống của nhân dân, ngày càng được đề cao trong xã hội.
       Sang tháng 7, đây là thời kì mà cách mạng phát triển hòa bình đã chấm dứt. Tháng 8 đến tháng 10 là thời kì giành chính quyền bằng khởi nghĩa vũ trang, đăc biệt là sự kiện tháng 10. Đêm 24/10, quân khởi nghĩa tấn công cung điện Mùa đông và cuộc khởi nghĩa ở Pêtôgrat giành thắng lợi hoàn toàn.
       Như vậy Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga giành thắng lợi hoàn toàn và thiết lập nên chính quyền mới ở Nga
       2.3 Đóng góp của cách mạng tháng Mười nga đối với quan hệ quốc tế:
2.3.1 Với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại dưới sự lãnh đạo của chính đảng vô sản Bonsevich đã lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động đấu tranh giành được  chính quyền, mở ra một thời kì mới trong quan hệ quốc tế, thời kì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, với thắng lợi của cuộc cách mạng này lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa xã hội đã thành hiện thực, chặt đứt khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền của của chủ nghĩa đế quốc, làm chủ nghĩa đế quốc không còn là hệ thống duy nhất trên thế giới.
Thắng lợi của Cách mạng tháng 10 đã dẫn đến sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô Viết đầu tiên trên thế giới, chặt đứt một khâu quan trọng trong toàn bộ sợi dây xiềng của chủ nghĩa đế quốc, phá vỡ một mảng lớn của hệ thống đế quốc thực dân làm cho chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống hoàn chỉnh bao trùm Thế giới. Ngoài những mâu thuẫn vốn có ngày càng sâu sắc và quyết liệt trong chủ nghĩa tư bản( mâu thuẫn giữ tư sản và vô sản; mâu thuẫn giữ đế quốc và các dân tộc bị áp bức; mâu thuẫn giữ đế quốc và đế quốc), sự ra đời của nhà nước Xô Viết đã làm nảy sinh mâu thuẫn mới: mâu thuẫn giữu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Đúng như Lênin đã chỉ ra tại Đại hội lần thứ hai các Xô Viết toàn Nga(từ 23 đến 28/12 năm 1921): “ Hiện nay trên thế giới có hai thế giới: thế giới cũ, tức là chủ nghĩa tư bản, đang bị lung túng sa lầy, nhưng nó sẽ không bao giờ lùi bước, và thế giới mới đang lớn lên, hiện nay còn rất non yếu, nhưng nó sẽ lớn mạnh,vì nó là vô địch” (Lênin:toàn tập,Nxb Tiến bộ, Matxcơva, 1978, tập 44. Tr.366). Những mâu thuẫn đó đã tạo ra thách thức đối với chủ nghĩa tư bản.
Có thể thấy rõ điều này, sau khi cách mạng tháng Mười thắng lợi và nhà nước Xô Viết ra đời của cùng với những chính sách tiến bộ như: Ngày 2-11-1917 chính quyền Xô viết đã thông qua “Tuyên ngôn về quyền các dân tộc Nga”, thừa nhận quyền phát triển tự do và quyền bình đẳng các dân tộc sống trên lãnh thổ Nga. Cuối năm 1917, chính quyền Xô Viết đã bắt đầu các biện pháp quốc hữu hóa các xí nghiệp lớn, giao thông vận tải, ngân hàng và ngoại thương. Trong nông thôn Đảng và nhà nước tiến hành tịch thu ruộng đất của địa chủ và chia cho nông dân…, với những chính sách này uy tín của Đảng Bonsevich ngày càng được khẳng định, khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng được củng cố vững chắc. Chính vì vậy các nước đế quốc hết sức lo sợ, với âm mưu phá hoại tiến tới bóp chết chính quyền cách mạng còn non trẻ, 14 nước đế quốc đã nhanh chóng tập hợp lực lượng, phối hợp hành động cùng với bọn phản động trong nước gây nên cuộc nội chiến và can thiệp vũ trang vào nước Nga Xô Viết.
       Các cường quốc đã đưa ra nhiều biện pháp chống chính quyền Xô Viết và ngăn chặn ảnh hưởng của cách mạng tháng Mười Nga. Đó là việc các đạo quân can thiệp Anh, Pháp, Mĩ, Nhạt Bản vẫn tiếp tục hoạt động ở Nhật Bản vẫn tiếp tục hoạt động ở miền Bắc và viễn Đông nước Nga, bọn phản động các nước láng giềng Ba Lan, Rumani tấn công nhằm lật đỏ chính quyền XôViết. Nhưng những âm mưu can thiệp vào nước Nga Xô Viết, các nước tư bản phải xem lại chính sách của mình. Giữ  vòng vây của chủ nghĩa tư bản, nước Nga bắt đầu quan hệ với nước Đức. Hai nước đã kí kết hiệp ước Roopalô(4-1922) thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp ác bình đẳng. Từ năm 1924, tất cả các nước tư bản chủ yếu lần lượt quan hệ với nước Nga Xô Viết.
àQua đó, chúng ta thấy thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga và sự thành lập nước  Nga xô viết báo hiệu một hệ thống chính trị - kinh tế mới ra đời đối lập với chủ nghĩa tư bản nhưng nó cũng làm cho mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế trở nên phức tạp, chằng cheó chi phối quá trình hình thành và tan rã của trật tự thế giới Vecsxai –Oasintơn trong 20 năm (1919 -1939).
       2.3.2 Cách mạng tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng thế giới, làm dấy lên một phong trào cách mạng rầm rộ ở khắp châu Á, châu Âu và châu Phi và châu Mĩ La Tinh.
Sau CM tháng Mười, một cao trào cách mạng của giai cấp vô sản cách nước Châu Âu đã diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ làm chấn động đến tận gốc nền thống trị của giai cấp tư bản độc quyền trong nhiều nước. Đặc biệt là cao trào cách mạng vô sản đã diễn ra sôi nổi, dồn dập ở hầu hết các nước châu Âu trong những năm 1918 -1923. Đáng chú ý là trên các ngọn cờ của mình, giai cấp vô sản các nước phương Tây viết những khẩu hiệu mà cuộc cách mạng Nga đã chiến thắng dưới những khẩu hiệu ấy.
phong trào cách mạng thế giới đã nổ ra với số lượng và chất lượng rộng khắp và điều này tất yếu dẫn đến sự ra đời các Đảng Cộng sản sẽ ra đời để bảo vệ và lãnh đạo cách mạng. Năm 1918, đã xuất hiện một loạt các Đảng cộng sản: Đảng cộng sản Áchenti na, Phần Lan, Áo, Hunggri, Ba Lan, Đức…Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đánh dấu sự chiến thắng của giai cấp công nhân trực tiếp tạo điều kiện thúc đẩy việc thành lập quốc tế Cộng Sản vào 1919. Bên cạnh đó, Quốc tế cộng sản cũng đã mở ra một thời kỳ mới  trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ La-tinh đi theo con đường Cách mạng vô sản dưới ngọn cờ tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin.
       Phong trào giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của phong trào Cách mạng vô sản Thế giới. Nhờ đó, phong trào giải phóng dân tộc nhiều nước phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự thành lập của các đảng cộng sản: Đảng Cộng sản In đô nê xia (1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921 ), Đảng Cộng sản Ai Cập (1921 ), Đảng Cộng sản Bra xin(1922), Đảng Cộng sản Cu Ba (1925), Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 ), Đảng Cộng Thái Lan (1930).
Như vậy Quốc tế cộng sản đánh dấu sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin với chủ nghĩa cơ hội xét lại, là cầu nối, trung tâm lãnh đạo phong trào cộng sản công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc mà hạt nhân là Đảng Bônxêvích Nga, củng cố và đoàn kết hang ngũ Đảng cộng sản, vũ trang cho các Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp đấu tranh qua 7 kì đại hội:
Tại đại hội III của Quốc tế cộng sản năm 1921 ở Matxcova có 605 đại biểu của 103 tổ chức ở 52 nước tham dự, đến đại hội IV năm 1922 có đại biểu 58 nước đại diện cho gần 2 triệu đảng viên…
       Kế luận:
Qua đó chúng ta có thể khẳng định rằng cách mạng tháng Mười Nga mà trực tiếp thông qua QTCS đã đưa những tư tưởng của giai cấp công nhân truyền bá rộng rãi thúc đẩy các Đảng cộng sản ra đời góp phần rất quan trọng vào sự phát triển và thắng lợi của phong trào công nhân ở các nước tư bản để chống lại sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa Đế quốc ở Châu Âu và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc ở Á – Phi – Mĩ la tinh.
2.3.3 Cách mạng tháng Mười nga để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý giá cho phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc, đó là các bài học về chính đảng vô sản, liên minh công nông, bạo lực cách mạng, thời cơ cách mạng, về giành và giữ chính quyền cách mạng.
Chúng ta có thể thấy được những bài học quý giá này đã được Bác Hồ áp dụng một cách sáng tạo và có hiệu quả như thế nào trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, giành lại độc lập chủ quyền cho đất nước. Là một người cộng sản chân chính và luôn trung thành với chủ nghĩa Mac-Lenin, Người đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin và những bài học kinh nghiệp của cách mạng tháng Mười Nga vào cách mạng Việt Nam. Trong hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở Cửu long- Hương Cảng (Trung Quốc) vào đầu tháng giêng năm 1930, bản chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt do người khởi thảo được hội nghị thông qua đã vạch ra phương hướng phát triển của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đường lối đó là kết quả của sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản với thực tiễn của cách mạng Việt Nam, chính nhờ có một đường lối đúng đắn đã được thực tiễn chứng minh trong cách mạng tháng Mười nên cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác và cuối cùng đã giành lại độc lập cho đất nước, tự do cho dân tộc. Những bài học trong cách mạng tháng Mười cũng đã được nhiều dân tộc thuộc địa khác áp dụng trong công cuốc đấu tranh giải phóng dân tộc mình và đã đạt được những thắng lợi to lớn.
2.3.4 Thắng lợi của cách mạng tháng Mười, nó đã chứng tỏ sự kế thừa, phát triển và bảo vệ những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin làm cho chủ nghĩa Mác Lênin trở thành một lí luận cách mạng khoa học, là chân lí có tính chất phổ biến, là ánh sáng soi đường, là kim chỉ nam cho mọi cuộc cách mạng đi tới thắng lợi.
       Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa xã hội khoa học từ lý luận đã trở thành hiện thực, trở thành lẽ sống, niềm tin hy vọng của lãnh nhân dân lao động. CNXH đã trở thành hiện thực sinh động từ châu Âu sang châu Á đến châu Mỹ- La tinh. Chính vì lẽ đó, từ sự phát triển sâu rộng và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác -Lê nin đã dẫn đến một hệ quả rất quan trọng đối với cách mạng thế giới .Đó là sự ra đời của các Đảng Cộng sản đã chứng minh giá trị vĩ đại và sức sống mãnh liệt, tính vĩnh hằng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đỉnh cao trí tuệ của nhân loại, vũ khí sắc bén và không có gì có thể thay thế của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Mặc dù bị bọn cơ hội xét lại và các lực lượng thù địch của chủ nghĩa tư bản luôn tìm cách xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận, nhưng từ sau Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác – Lênin được truyền bá nhanh chóng trên khắp hành tinh, trở thành kim chỉ nam, ngọn đuốc luôn toả sáng soi đường, dẫn dắt, thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười 1917 ở Nga thắng lợi, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết thúc đã mở ra một thời kỳ phát triển mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Tiếng vang của Cách mạng tháng Mười Nga đã vượt qua biên giới của nó, tác động mạnh mẽ đến hầu khắp các quốc gia – dân tộc trên hành tinh. Trong đêm dài đen tối đầy bất công của chế độ: phong kiến, tư bản thực dân, nhất là qua những năm tháng khủng khiếp của Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), nhân dân ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, những người phải chịu đựng nhiều tai họa nhất của chiến tranh đã tìm thấy ở Cách mạng tháng Mười những niềm hi vọng to lớn, đối với mình, thúc đẩy họ vùng dậy đấu tranh giành quyền sống, giành độc lập dân tộc”. Về Cách mạng tháng Mười – Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá và nhận xét như sau: “Như ánh mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng Mười chiếu rọi khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên Trái đất. Trong lịch sử loài người, chưa có cuộc Cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế” (Hồ Chí Minh).
Đồng thời, khi nói đến cách mạng tháng Mười, chúng ta không thể không khẳng định vai trò của Lê nin đối với dân tộc Nga cũng như các dân tộc trên thế giới:
Đầu thế kỉ XX, trung tâm cách mạng thế giới chuyển từ Đức sang Nga, Quốc tế II trong giai đoạn đầu do Angghen đứng đầu đã tích cực hoạt động tuyên truyền chủ nghĩa Mac vào phong trào công nhân, chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội. Quan điểm của chủ nghĩa xét lại cho rằng đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc bản chất của chủ nghĩa tư bản đã thay đôi, do đó những nguyên lí của chủ nghĩa Mác về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản không còn đúng nữa, dưới sự lãnh đạo của Angghen, Quốc tế II bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác, thúc đẩy phong trào công nhân phát triển ở các nước.
Tuy nhiên, sau khi Angghen qua đời, Quốc tế II sa vào chủ nghĩa cơ hội và bị chủ nghĩa cơ hội đánh bại. Chủ nghĩa cơ hội cho rằng: Đấu tranh nghị trường là phương pháp tối ưu có thể đem lại thắng lại cho giai cấp công nhân, hay chống laị những vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa Mác như: vai trò của giai cấp vô sản, giai cấp lãnh đạo cách mạng, phương pháp đấu tranh ám sát, bạo động, chống chủ nghĩa xã hội, chuyên chính vô sản, chống liên minh công nông…
Nhưng đến cuối chiến tranh thế giới thứ I, Lê Nin- người kế tục trung thành của chủ nghĩa Mác đã có những đóng góp to lớn làm hồi sinh phong trào cách mạng thế giới. Lê Nin đã tham gia phong trào cách mạng, viết nhiều tác phẩm nổi tiếng như : “Làm gì”, “Chủ nghĩa tư bản Nga”, “Một bước tiến hai bước lùi”…,Đồng thời, Lê Nin ra sức bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác và phát triển chủ nghĩa Mác trong thời kì chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa Mác nêu nguyên tắc xây dựng Đảng là tập trung- dân chủ thì Lê Nin đã phát triển thành tập trung thì phải dân chủ và ngược lại, phê bình và tự phê bình sẽ làm trong sáng Đảng, phát triển cách mạng không ngừng trong thời kì đế quốc chủ nghĩa, Lê Nin cho rằng trong thời kì củ nghĩa đế quốc( đêm trước của cách mạng vô sản), giai cấp tư sản chưa đủ mạnh nên giai cấp vô sản phải đứng lên nắm lấy lá cờ phong trào dân chủ cách mạng và giành lấy chính quyền. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng Lê Nin đóng một vai trò rất quan trọng đối với phong trào cách mạng thế giới.
III.KẾT LUẬN:
Như vậy, sau khi tìm hiểu tác động của hậu quả chiến tranh thế giới thứ nhất và đóng góp của cách mạng tháng Mười Nga đối với quan hệ quốc tế thì chúng ta thấy rằng, trong thời kỳ này các mối quan hệ giữa các nước trên thế giới rất phức tạp và chồng chéo nhau, đó không chỉ là những mâu thuẩn giữa các nước đế quốc sau khi hệ thống Vecxai – Oasinhton được thiết lập, đó còn là mâu thuẩn giữa các nước đế quốc với nước Nga xô viết, chính những mâu thuẩn này đã từng bước đẩy thế giới đi đến cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
Tuy nhiên, với sự thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào công nhân ở các nước tư bản và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, sau cách mạng tháng Mười chủ nghĩa Mác- Lênin được xâm nhập và phổ biến ở nhiều nước, đây là một yếu tố quan trọng cho sự ra đời của các Đảng cộng sản đặt dưới sự lãnh đạo chung của Quốc tế cộng sản, vì vậy phong trào đấu tranh của các nước dần dần có sự đoàn kết chung, tạo nên một sức mạnh để chống lại chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn thế giới. Có thể nói đây là một điểm nhấn quan trọng trong mối quan hệ quốc tế sau cách mạng tháng Mười Nga và sau chiến tranh thế giới thứ nhất.














TÀI LIỆU THAM KHẢO:

* Sách:
1.Hồ Châu (cb), Tập bài giảng quan hệ quốc tế, NXB Lý luận chính trị, H.2004.
2. Lê Văn Quang, Lịch sử quan hệ quốc tế từ năm 1917-1945, NXB Giáo dục, H.2004.
3. Nguyễn Quốc Hùng, Cách mạng tháng Mười Nga 1917- Lịch sử và hiện tại, NXB Chính trị quốc gia, H.2007.
4. Nguyễn Trọng Chuẩn, Cách mạng tháng Mười và ý nghĩa thời đại của nó, NXB Chính trị quốc gia, H.1997
5. Phan Ngọc Liên, Chiến tranh thế giới thứ I (1914-1918), NXB Giáo dục, H.2001.
6. Nguyễn Anh Thái (cb), Lịch sử thế giới hiện đại từ 1917-1945, NXB Đại học quốc gia, H.1999.
7. Lê Văn Anh – Hoàng Thị Minh Hoa – Đinh Thị Loan – Bùi Thị Thảo, Bài giảng lịch sử thế giới hiện đại(1917 – 1945), Đại học sư phạm – Đại học Huế, 2006.
8. N.Ni-ki-phô-rốp, trích theo lịch sử thế giới, Nxb Sử học, Hà Nội, 1961.
*  Website:
1.Vi.wikidia.org/wiki/chiến_tranh_thế_giới_thứ_nhất
2.www.shopkienthuc.net/lich su cach mang thang Muoi Nga
3.quankhoasu.blogspot.com/lich su the gioi-Pham Thi Vinh
* Tạp chí:
1. Nghiên cứu lịch sử, số 6 .1997
Nội dung tóm tắt: “Việt Nam tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo con đường của Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại ”, tr.1-tr.6.
2. Sinh hoạt lí luận, số 2(87)/2008.
Nội dung tóm tắt: “Góp phần vào cuộc đấu tranh tư tưởng nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện hiện nay ”.
Young be a:
 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Nhận xét

Nguồn: Trang trí blog mùa giáng sinh với hiệu ứng tuyết rơi, ông già Noel và giàn chuông cực hot | Sử Minh Thành http://smthanh.blogspot.com/2012/12/trang-tri-blog-mua-giang-sinh-voi-hieu.html#ixzz2RLJerMpo Follow us: @suminhthanh on Twitter | smthanh on Facebook