Bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số ở Kon Tum
trước xu thế phát triển
Đảng và Nhà nước cần sớm phát triển và hoàn thiện những chính sách
bảo vệ văn hóa để bản sắc của đồng bào các dân tộc ở Kon Tum, Tây Nguyên nói
riêng và của cả dân tộc Việt Nam ta nói chung ngày càng được lưu giữ và phát
triển không ngừng.
1. Kon Tum và những vấn đề về dân cư - dân
tộc
a) Dân cư. Khi tái lập (1991), dân
số của tỉnh Kon Tum là khoảng 23 vạn người. Tổng điều tra dân số (01-4-1999) là
308.925 người và tới cuối năm 2001 là 344.043 người (số liệu Niên giám Thống kê
- Cục Thống kê tỉnh Kon Tum năm 2001).
Như vậy trong khoảng 10 năm nay, trung bình
mỗi năm dân số Ở Kon Tum tăng khoảng gần một vạn người. Lu ý, đối với đồng bào
các dân tộc thiểu số chủ yếu là tăng tự nhiên, đối với người Kinh, chủ yếu là
tăng trưởng cơ học (kinh tế mới, di dân v.v.). Tuy có tăng, nhưng mật độ dân
số Kon Tum cũng chỉ dạt hơn 30 người/km2, còn thưa thớt so với mật độ
dân số chung cả nước hiện nay
Có thể tạm chia cư dân Kon Tum thành 3 khu
vực:
- Các dân tộc bản địa: khoảng 52%
- Các dân tộc xen cư: khoảng 2% '
- Dân tộc Kinh: khoảng 46% '
b) Về dân tộc bản địa.
Chúng tôi dùng bản địa để chỉ bộ phận cư
dân gốc gác là đồng bào các dân tộc thiểu số, và danh từ chỉ dân tộc đã
được Tổng cục Thống kê công bố từ năm 1979. Với hai ý nghĩa đó, dân tộc bản địa
ở Kon Tum gồm có: Xơđăng, Bana, Gié - Triêng, Giarai, Brâu và Rơmăm (6 dân
tộc). Tỉnh Gia Lai - Kon Tum (cũ) cũng chỉ có 6 dân tộc bản địa và khi chia ra
thành 2 tỉnh, phần đa dân tộc đã thuộc về Kon Tum. Hiện nay, dân tộc bản địa ở
Gia Lai cũng chỉ có Giarai và Bana. Điều muốn nói ở đây là vấn đề trong một số
dân tộc lại có nhiều dân tộc (theo cách làm của những nhà dân tộc học: Ghép
những nhóm dân tộc nhỏ để hợp thành dân tộc lớn - như số liệu năm 1979) xem ra
còn có nhiều bất cập.
Trong 6 dân tộc bản địa ở Kon Tum thì Brâu
và Rơmăm thuộc vào số những dân tộc có số dân quá ít ỏi, họ có nhiều thiệt
thòi, nên đã được Đảng và Nhà nước có chính sách đặc biệt để phát triển. Từ
cách ứng xử đó, nhiều nhóm dân tộc nhỏ khác cũng có nguyện vọng được tách ra
như một dân tộc độc lập, hy vọng được hưởng những ưu đãi đặc biệt nh Brâu,
Rơmăm. Chúng ta vẫn biết để được xác định là một dân tộc, phải có những tiêu
chí khoa học và do những cơ quan chức năng khảo cứu kỹ càng, tham mưu cho Nhà
nước. Song, vấn đề ý thức tự nguyện, mong muốn của mỗi dân tộc, chúng tôi cho
rằng cần phải được quan tâm, giải quyết thỏa đáng. Với những suy nghĩ đó, cụ
thể với từng dân tộc bản địa ở Kon Tum thì có những dân tộc và nhóm dân tộc như
sau:
+ Dân tộc Xơđăng: Hợp thành từ các nhóm
Xàteng (Xơđăng gốc), Hàlăng, Càdong, M'nâm, Sơđrá, Châu.
+ Dân tộc Bana: Ở Kon Tum chỉ có hai nhóm
Rơngao, Jilâng. Các nhóm Tôlô, Alacông, Glar, Konkdeh, Khiêm, Chăm h'roi v.v.
đều ở phía Nam
(địa bàn Gia Lai, Phú Yên, Bình Định).
+ Dân tộc Giarai: Ở Kon Tum là ngành (nhóm)
Aráp. Các nhóm Chor, Tbuăn, Mthur, Hơdrang... ở địa bàn Gia Lai.
+ Dân tộc Gié - Triêng hợp thành từ hai
nhóm chính Giẻ và Triêng ngoài ra còn có nhóm Vẻh, Tàtrẽ.
+ Brâu và Rơ măm khá thuần chủng, số dân
ít, như đã nói trên. Hiện nay, mỗi dân tộc này có trên 300 người, họ cư trú
gọn trong một làng (Rơ măm ở làng Le, Môray, Sa Thầy; Brâu ở Đăk Mế, Bờ Y, Ngọc
Hồi).
c) Về dân tộc Xơđăng:
+ Dân số các dân tộc bản địa trong tổng số
dân ở Kon Tum (năm 2001) như sau:
Tổng số dân toàn tỉnh: 344.043 người trong
đó
- Dân tộc Xơđăng: 84.313 người
- Dân tộc Bana: 40.358 người
- Dân tộc Gié - Triêng: 36.907 người
- Dân tộc Giarai: 17.580 người
- Dân tộc Rơmăm: 340 người
- Dân tộc Brâu: 312 người
(số liệu của Cục Thống kê, Niên giám năm
2001)
+ Từ những số liệu này, dân tộc Xơđăng được
xem là dân tộc lớn nhất và tiêu biểu cho các dân tộc bản địa ở Kon Tum. Hơn
nữa, địa bàn cư trú của họ rất rộng. Ngoài hai huyện Đăk Tô, Kon Plông là nơi
cư trú từ lâu đời thì với sự hợp thành từ nhiều thành phần như đã nói ở trên,
gần như huyện nào, cả thị xã tỉnh lỵ cũng đều có người Xơđăng sinh sống. Họ
chiếm gần 25% dân số Kon Tum.
+ Cũng từ những số liệu này, để góp tiếng
nói chung về dân tộc Giarai, chúng tôi thấy Kon Tum sẽ không góp gì được nhiều.
Bởi dân tộc Giarai chỉ là một nhóm (Tráp) sống ở Kon Tum, số dân ít, địa bàn cư
trú hẹp, mọi phong tục tập quán và những giá trị về bản sắc văn hóa, phần nào
họ vẫn hướng tâm, nghĩa là lệ và phụ thuộc vào nguồn gốcư dân tộc, mà diễn ra
sâu sắc lại chính nằm ở địa bàn tỉnh Gia Lai.
+ Nếu có dịp chúng ta bàn tới dân tộc
Xơđăng, chắc chắn Kon Tum sẽ có nhiều đóng góp hoặc chí ít thì cũng là những
gợi mở, đề xuất với giới nghiên cứu khoa học về nhiều khía cạnh, góc nhìn. Theo
chúng tôi, Xơđăng là đặc trưng cho dân tộc bản địa ở Bắc Tây Nguyên và tỉnh Kon
Tum.
2. Một số vấn dề tín ngưỡng, tôn giáo,
phong tục tập quán của cư dân bản địa Ở Kon Tum
a) Tín ngưỡng:
Tín ngưỡng của cư dân tỉnh Kon Tum mới chỉ
dừng lại ở tín ngưỡng dân gian, đa thần giáo. Quan niệm về thần linh - giàng
(yang) là khái niệm chung, cao nhất. Có thể coi giàng là trời cũng được mà là
thần cũng được. Có rất nhiều loại giàng như: Giàng H'ma (thần rẫy), Giàng Lon
(thần đất), Giàng Khăm (thần sét), Giàng Chưh (thần núi), Giàng Pên Ia (thần
nước) v.v.. Các dân tộc bản địa ở Kon Tum có những ý tưởng rất phong phú và độc
đáo khi ứng xử với người chết, với linh hồn... tóm lại là, tín ngưỡng của họ
mang màu sắcư dân gian rất đậm nét.
b) Tôn giáo:
Tôn giáo chính thống ở Kon Tum hiện nay có:
Đạo Thiên Chúa, đạo Phật, Tin Lành và Cao Đài.
- Trong đó, Thiên chúa giáo đến sớm nhất,
có ảnh hưởng sâu rộng trong khu vực Tây Nguyên (Kon Tum có đại chủng viện) và
cũng ảnh hưởng rất lớn vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, tín đồ Thiên Chúa
giáo chiếm gần 30% tổng số dân, trong đó 70% là đồng bào các dân tộc.
- Tôn giáo khác: Phật giáo (5 - 6% dân số),
Tin Lành (11 000 người, chiếm gần 3%), Cao Đài khoảng 600 người, không có chức
sắc.
c) Phong tục, tập quán:
+ Sinh hoạt cộng đồng (làng, Plei) là cội
nguồn sản sinh ra, lưu giữ, lưu truyền mọi phong tục, tập quán của dân cư
bản địa.
- Nói về truyền thống thì làng là tổ chức
hành chính duy nhất khép kín, chỉ tiếp xúc bên ngoài khi đến ngỏ hôn nhân, lưu
thông và trao đổi về công cụ sản xuất, nhu yếu phẩm sinh hoạt và có thể nữa là
giao lưu văn hóa.
- Làng được hình thành từ sự tan rã của thị
tộc mẫu hệ, dẫn đến đời sống cư dân bản địa ở đây còn lại dấu vết đâu đó có thể
là song hệ, mẫu hoặc phụ hệ.
- Dưới làng, đậm nét nhất vẫn là. dòng tộc
rồi đến gia đình và những thành viên. Vì thế, vai trò của già làng hoặc tập thể
những người già (hội đồng già làng) giữ vai trò rất quan trọng. Phong tục, tập
. quán được hình thành từ.
- Văn hóa núi rừng, gắn với thiên nhiên.
- Tín ngưỡng dân gian đa thần giáo.
- Văn hóa làng.
- Chế độ mẫu hệ và tàn dư dấu vết của nó.
- Từ các quan hệ sở hữu.
- Sự phân hóa tầng lớp (chủ yếu là giầu,
nghèo).
- Phân công lao động
- Phân phối sản phẩm.
- Các đặc trưng: tính cộng đồng, cộng cảm,
ngay thẳng,thật thà cùng ý nguyện, hồn nhiên, bản năng, nhạy cảm về nghệ thuật
trình diễn dân gian... đều có ở trong phong tục tập quán. Bên cạnh đó, vẫn tồn
tại những yếu tố mê tín, dị đoan, kiêng cữ nặng nề có khi trở thành những hủ
tục nhất là từ các luật tục.
- Mọi phong tục, tập quán thường được thể
hiện tập trung ở hệ thống lễ hội dân gian, dày dặc suốt trong năm và rộ lên ở
mùa ăn năm, uống tháng (ning nơng: nghỉ ngơi), diễn ra ở mùa khô (từ tháng 11 dương
lịch năm này tới hết tháng 3 năm sau).
- Những 'lễ hội dân gian đó, quy tụ về 3
trục chính: quy trình phát triển cây lúa rẫy, xung quanh một đời người (từ khi
sinh ra đến khi qua đời) và xung quanh vận mệnh của cộng đồng làng.
.www.kto.vn
a. . Phát triền của đồng bào dân tộc thiều
số
(bản địa) trong hội nhập, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Kon Tum
a) P hát hiện và hội nhập chung
Kon Tum là địa bàn hội đủ các điều kiện khó
khăn cần có sự quan tâm đặc biệt, toàn diện. Là tỉnh miền núi, vùng cao, biên
giới là căn cứ cách mạng và đặc biệt có tỷ lệ đồng bào dân tộc thiểu số rất
cao, trong đó đa phần là dân tộc bản địa.
- Để giúp đồng bào các dân tộc phát triển,
hàng loạt chính sách, biện pháp, giải pháp chủ yếu về kinh tế đã được triển
khai: Tập trung nhiều nhất là xóa đói giảm nghèo. Để mục tiêu này có hiệu quả,
tỷ lệ đói nghèo giảm nhanh phải cải tạo cơ sở bạ tầng, từ tỉnh xuống nông thôn:
diện, đường, trường, trạm; định canh, định cư, giao đất khoán rừng; chăm lo
sức khỏe, chăm lo giáo dục; khuyến nông, khuyến lâm; nước sạch nông thôn.
- Quá trình tập trung phát triển kinh tế,
đã có những bước nhảy vọt, phá vỡ những tư duy lạc hậu, hằn sâu trong nếp
nghĩ, phong tục, tập quán lâu đời. Mới chỉ hơn 10 năm (kể từ khi thành lập lại
bộ mặt nông thôn, đời sống người dân đã có nhiều thay đổi tích cực và được nâng
lên rõ rệt.
- Có thể khẳng định sự nghiệp đổi mới là
con đường đúng đắn và duy nhất dể biến đổi cuộc sống cho đồng bào các dân tộc
vùng Tây nguyên, trong đó có Kon Tum. Bởi vậy thu hẹp khoảng cách giữa đời sống
của đồng bào các dân tộc thiểu số với người Kinh, giữa miền núi và đồng bằng,
giữa vùng cao và miền xuôi là mơ ước, mục tiêu lớn của chúng ta. Đây là một
quá trình cách mạng đầy cam go, khó khăn nhưng phải từng bước làm chủ dể
giành thắng lợi.
b) ứng xử thê nào với truyền thông văn hóa
Cái khó của chúng ta là: Làm thế nào để
đồng bào các dân tộc thiểu số tăng tốc trong phát triển đời sống mà lại giữ
gìn, phát huy tốt được bản sắc văn hóa cua chính mình.
- Mọi bản sắc xa xưa gắn liền với phong
tục, tập quán của một buôn làng truyền thống. Giờ đây làng từng bước cũng phải
thay đổi, kinh tế tự cung tự cấp phải chuyển đổi thành kinh tế hàng hóa, phương
thức sản xuất phải cải tiến, không còn chỉ biết săn bắt, hái lượm, chiếm đoạt
tự nhiên mà phải biết chăn nuôi, trồng trọt, thuần dưỡng, chuyển dịch giống
cây, giống con, khai hoang cánh đồng, làm ruộng nước.
- Sẽ khổng còn nhiều thời gian để con người
tự cho mình đắm chìm trong sinh hoạt theo phong tục tự nhiên, gần như bản
năng, truyền thống từ bao đời nay.
- Chúng tôi vẫn biết những nét văn hóa độc
đáo, đặc trưng lớn như nhà rông, cồng chiêng, trang phục thổ cẩm, diễn xướng
sử thi, v.v. là vô giá. Nhưng những ràng buộc khắt khe về bảo vệ, phát triển
rừng sẽ không cho phép tự do khai thác gỗ để làm nhà rông (gỗ quy) .
Nhiều nghệ nhân cao tuổi, già yếu, cuộc sống khó khăn sẽ lần lượt phải ra đi
mà chưa kịp kể cho con cháu, cho những nhà khoa học nghe cả kho tàng chuyện xưa,
sử thi có trong trí nhớ của mình. Tiếng nói truyền thống ông bà sẽ mãi theo họ
về với lòng đất.
- Rồi thế hệ trẻ hôm nay, ít ra cũng đã hơn
một thế hệ (kể cả ngày giải phóng 1975) sẽ không có điều kiện để yêu thích, học
lấy những làn điệu dân ca của dân tộc mình, không biết đánh cồng chiêng, không
trồng bông lấy sợi để nhuộm và dệt váy áo cho chính mình, không chế tạo được và
cũng không biết dùng những cây đàn goòng, T’Rưng, sáo một lỗ, ba lỗ mà tỏ tình,
giao duyên. Các cháu nhỏ hiện nay quên hết các bài đồng dao.
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa
VIII , tỉnh Kon Tum đã xác định việc bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống
của các đần tộc bản địa, coi đó là công tác trọng tâm và lâu dài. Tỉnh uỷ, Hội
đồng nhân dần, Uỷ ban nhân dân và các cấp chính quyền của tỉnh đã có nhiều chủ
trương, giải pháp để thực hiện nhiệm vụ này. Tuy nhiên, các cấp chính quyền
vẫn còn rất nhiều băn khoăn liên quan đến văn hóa, văn hóa truyền thống và bản
sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc. Những băn khoăn đó đang đặt ra cho chúng
ta nhất là những nhà nghiên cứu khoa học nhiều suy nghĩ. Đảng và Nhà nước cần
sớm phát triển và hoàn thiện những chính sách bảo vệ văn hóa để bản sắc của
đồng bào các dân tộc ở Kon Tum, Tây Nguyên nói riêng và của cả dân tộc Việt Nam
ta nói chung ngày càng được lưu giữ và phát triển không ngừng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nhận xét