I.Mở đầu:
Quan hệ quốc tế là quan hệ chính trị giữa nhà nước này với nhà nước
khác, là sự tổng hợp những mối quan hệ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội của các chủ thể hành động trong cộng đồng quốc tế, là họa động
chính trị quốc tế mà các nước và các tập đoàn chính trị tham gia, là tổng hợp
các chế định và hình thức hoạt động quốc tế.
Nhìn
lại lịch sử của nhân loại, chúng ta thấy rằng ngay từ khi giai cấp và nhà nước
hình hành trên thế giới thì giữa các quốc gia đã có những mối quan hệ với nhau,
và mối quan hệ giữa các nước luôn biến động trong các thời kì khác nhau. Trong
đó thời kỳ cận đại để lại một dấu ấn rất lớn đối với lịch sử quan hệ quốc tế
khi trong thời kỳ này đã diễn ra nhiều sự kiện có tác động lớn đến sự phát riển
của thế giới, cũng như các mối quan hệ quốc tế lúc bấy giờ như các cuộc cách
mạng tư sản, cách mạng công nghiệp, sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản khoa học,
Quốc tế I…, đặc biệt cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc với những hậu
quả lớn vào cuối thời kỳ cận đại và sự
thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga vào đầu hời hiện đại đã có những tác
động rất lớn đến tình hình các nước trên thế giới và mối quan hệ giữa các nước
trong thời kỳ này, một mối quan hệ đa dạng và phức tạp.
II.
Nội dung
II.1
Đánh giá hậu quả của chiến tranh thế giới thứ nhất đến quan hệ quốc tế
1.1 Bối cảnh quốc tế trước chiến tranh
Vào thời cận đại, quan hệ giữa các nước
ngày càng mở rộng và trở nên phức tạp hơn. Đó là quan hệ giữa các nước tư bản
thực dân với các nước thuộc địa và phụ thuộc, quan hệ giữa các nước đế quốc với
nhau. Quan hệ sau là chủ yếu và bắt nguồn xoay quanh vấn đề thuộc địa, mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc “già” và “trẻ”. Sang thời kì đế quốc chủ nghĩa, mối quan hệ này càng trở
nên phức tạp, gay gắt hơn dẫn tới các cuộc chiến tranh cục bộ đầu tiên, rồi tới
chiến tranh thế giới thứ nhất.
Những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, do
quy luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản đã làm thay đổi tương
quan so sánh lực lượng của chủ nghĩa đế quốc trên thế giới. Thời gian này việc
phân chia thế giới đã xong, không còn chỗ trống như trong các thế kỉ trước đó
nữa. Đây chính là nguyên nhân làm cho mâu thuẫn giữa các nước đế quốc ngày một
sâu sắc, đã đẩy các nước vào những cuộc chiến tranh đế quốc đầu tiên.
Bên cạnh đó, các nước đế quốc tăng cường
các cuộc chiến tranh xâm lược chiếm thuộc địa làm cho mâu thuẫn của chủ nghĩa
đế quốc ngày càng gay gắt trong đó nổi bật nhất là mâu thuẫn Anh – Đức.
Đức lúc bấy giờ đã chuyển hướng chính sách
đối ngoại, đẩy mạnh tăng cường sức mạnh quân sự nhằm thực hiện kế hoạch chinh
phục Châu Âu và thế giới của Thủ tướng Đức. Mũi nhọn trong chiến lược này là
giải quyết mâu thuẫn với nước Anh đang
ngày một gay gắt. Vì vậy lúc bấy giờ Anh buộc phải liên minh với Áo chứ không
thể thực hiện chính sách cô lập như trước đây nữa.
Đức đã thực hiện dần các cuộc chiến tranh
cục bộ để thử nghiệm, tăng cường sức mạnh và uy tín của mình nhằm mở rộng cuộc
chiến với quy mô lớn hơn. Đức đã gây 2 cuộc chiến với Marốc. Tuy có giành được
những hiệu quả nhất định nhưng cũng chính trong tình thế này đã đẩy Anh đứng về
phía Nga, Pháp bằng cách ký hiệp ước với Anh – Nga (1907).
Trước khi phát động một cuộc chiến tranh
với quy mô thế giới, các nước đế quốc (trực tiếp hay gián tiếp) đã gây ra những
cuộc khủng hoảng và những cuộc chiến tranh cục bộ ở Bancăng và Bắc Phi, khiến
cho quan hệ quốc tế luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng.
à Mục
đích của chiến tranh thế giới thứ nhất ngoài mục đích xâm chiếm thuộc địa, để
phân chia thị trường thế giới còn nhằm mục đích là củng cố chế độ tư bản chủ
nghĩa, với âm mưu thâm độc là lợi dụng chiến tranh để đàn áp phong trào công
nhân và phong trào giải phóng dân tộc ngày càng đang cao vào đầu thế kỉ XX.
1.2 Diễn
biến của chiến tranh
Chiến tranh thế giới thứ nhất là cuộc đụng
đầu lịch sử lớn nhất trong thời kỳ cận đại. Đây là cuộc chiến tranh khốc liệt
tàn bạo, kéo dài trong suốt 4 năm chia làm 2 giai đoạn lớn:
Giai
đoạn I (1914 – 1916):
Đức muốn dùng chính sách tấn công chớp
nhoáng đánh bại Pháp, tiến tới tiêu diệt Nga. Tuy nhiên, do Nga đã điều động
quân rất sớm, vì vậy khi Đức say sưa chiến thắng, bận đánh chiếm Bỉ và tấn công
Pháp thì Nga bất ngờ tấn công Đức ở Đông Phổ. Điều này buộc quân đội Đức phải
cho quân đến mặt trận phía Đông để đánh nhau với quân Nga. Quân Đức buộc phải dàn
quân cả 2 mặt trận Pháp và Đông Phổ nên không thể tập trung quân thực hiện
chiến lược chớp nhoáng kết thúc chiến tranh như là dự kiến ban đầu.
Chiến trường chính của chiến tranh chủ yếu
ở Châu Âu lôi kéo 38 nước tham gia. Thổ Nhĩ Kỳ và Bungari đứng về phía Đức, Áo,
Hung, Italia và Rumani đứng về phe hiệp ước (Nga, Anh, Pháp). Nhật Bản lợi dụng
các đế quốc tham chiến ở Châu Âu cũng tuyên chiến với Đức với ý đồ nhằm chiếm
thuộc địa Đức ở Thái Bình Dương và Trung Quốc mở rộng thế lực ở Viễn Đông và
Trung Quốc. Giai đoạn này mặc dù 2 bên đã tung ra những lực lượng quân hùng
hậu, phương tiện chiến tranh hiện đại nhưng vẫn chưa phân chia thắng bại, và
đều chưa thiệt hại lớn về người và của, nền kinh tế kiệt quệ. Điều này đã tạo
nên tình thế cách mạng ở Nga. Nga trở thành khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền
của chủ nghĩa đế quốc. Lênin và Đảng Bônsêvích lãnh đạo giai cấp vô sản, tập
hợp lực lượng quần chúng nhằm biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách
mạng.
Giai
đoạn II (1917 – 1918)
Sau 1917, nhằm cắt đứt con đường tiếp tế
của phe Hiệp ước, Đức đã sử dụng phương tiện chiến tranh mới là tàu ngầm. Tàu
ngầm của Đức tấn công phe Hiệp ước và cũng tấn công luôn tàu buôn của Mỹ. Nắm
lấy cơ hội này, tháng 4 – 1917, Mỹ chính thức tuyên chiến với Đức lấy lý do là
Đức đã vi phạm quyền tự do thương mại trên biển. Cán cân lực lượng đã nghiêng
hẳn về phe Hiệp ước khi có Mỹ tham chiến.
Lúc này ở Nga có cách mạng tháng 2 – 1917
bùng nổ dưới khẩu hiệu “đả đảo Nga hoàng”, “đả đảo chiến tranh”, vua Nicôlai II
đã bị phế truất, chính phủ lâm thời được thành lập nhưng vẫn theo đuổi chiến
tranh.
Sau cách mạng tháng 10 – 1917 giành thắng
lợi, nước Nga tuyên bố rút ra khỏi chiến tranh và ký Hiệp ước Brétlitốp với Đức
ngày 3 – 3 – 1918. Đức rảnh tay ở mặt trận phía Đông dồn quân về mặt trận phía Tây và dành được một số thắng lợi. Tháng 7 – 1918, quân
Mỹ trực tiếp đổ bộ sang Châu Âu (65 vạn) trực tiếp tham chiến, quân Anh, Pháp
nhân cơ hội đó phản công lại Đức. Đức liên tiếp thất bại buộc rút khỏi lãnh thổ
Pháp, Bỉ. Trong khi đó các Đồng minh khác của Đức cũng thất bại nặng nề và buộc
phải đầu hàng phe hiệp ước. Bungari kí kết đầu hang 29 – 9; Thổ Nhĩ Kỳ 30 – 10;
Áo – Hung 3 – 11.
Trong khi đó, cách mạng Đức bùng nổ và
giành được thắng lợi ở Béclin (9 – 11), cách mạng Đức bùng nổ. Vua Đức Vinhem
II chạy sang Hà Lan. Nước Đức buộc phải chấp nhận đầu hang. Ngày 11 – 11 –
1918, Hiệp ước đình chiến giữa Đức và phe Hiệp ước được kí kết ở rừng Compienhơ
gần Paris .
1.3
Hậu quả của chiến tranh thế giới I đến quan hệ quốc tế
1.3.1
Hậu quả của chiến tranh thế giới I
Cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất đã lôi
cuốn 70 triệu người ở tất cả các nước tham chiến, làm cho 10 triệu người bị
chết (trong đó: Pháp – 1.386.000, Anh – 900.000, Nga – 2.300.000, Xecbia –
700.000, Italia – 500.000, Rumani – 340.000, Đức – 1.600.000, Áo – Hung –
900.000, Thổ Nhĩ Kỳ - 440.000), 19 triệu người bị thương và 3,5 triệu người bị
tàn phế. Những thiệt hại về vật chất do cuộc chiến tranh gây ra là rất lớn (số
tiền các nước chi cho cuộc chiến tính theo triệu đôla là: Nga – 7.658, Pháp –
11.208, Anh – 24.143, Mĩ – 17.337, Đức – 19.884 và Áo – Hung – 5.438). Có rất
nhiều làng mạc, thành phố, nhà máy, hệ thống đường sắt, cầu cống bị phá hủy.
Toàn bộ nền kinh tế của các nước Châu Âu bị tê liệt, số tiền mắc nợ nước ngoài
tăng vọt. Trong những năm 1913 – 1920 sản lượng công nghiệp chế tạo ở Châu Âu
giảm 23%, việc đầu tư tư bản của Anh ra nước ngoài từ 1914 – 1918 giảm 50%, thu
nhập đầu người trong thời kì chiến tranh ở các nước Châu Âu năm 1920 thấp hơn
năm 1913.
Trong số các nước tham chiến, chỉ có Mĩ là
thu được món lời khổng lồ nhờ buôn bán vũ khí cho cả hai bên tham chiến (24 tỉ
đô la), vươn lên đừng đầu thế giới về kinh tế tài chính. Mĩ là chủ nợ của nhiều
nước trên thế giới, riêng ở Châu Âu, Mĩ cho Anh vay 4 tỉ đôla, Pháp – 3 tỉ đôla
và 17 nước khác – 3 tỉ đôla.
Quần chúng lao động ở chính quốc cũng như
thuộc địa là những người phải gánh chịu tất cả gánh nặng của mọi tai họa do
cuộc chiến tranh gây nên. Về một mặt nào đó do chiến tranh, tư sản dân tộc ở
một số nước thuộc địa và phụ thuộc lại có điều kiện phát triển vì không chịu sự
chi phối nặng nề, chặt chẽ của tư bản chính quốc.
Sau khi cuộc đại chiến lần thứ nhất kết
thúc, các nước thắng trận đã họp hội nghị hòa bình tại Vécxai (cách thủ đô Pari
của Pháp 18 km )
nhằm phân chia lại thế giới và thiết lập một trật tự hòa bình, an ninh mới sau
chiến tranh.
1.3.2
Đánh giá tác động của hậu quả chiến tranh thế giới I đến quan hệ quốc tế
Tác động thứ nhất: Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc,
đã mở ra một thời kì mới trong quan hệ quốc tế. Kết cục chiến tranh đã tác động
mạnh mẽ đến tình hình thế giới, cuộc chiến tranh này đã làm các cường quốc Châu
Âu, kể cả nước thắng trận hay bại trận đều suy yếu, trong khi đó ngay sau cuộc
chiến tranh này Mĩ và Nhật Bản đã trỗi dậy mạnh mẽ.
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, vị thế
của các cường quốc Châu Âu bị suy yếu cả các nước thắng trận lẫn bại trận. Hai
nước đế quốc già là Anh và Pháp tuy chiến thắng nhưng kinh tế bị kiệt quệ và
trở thành con nợ của Mĩ. Nước Ý một đồng
minh yếu trong chiến tranh bị xâu xé bởi cuộc chiến tranh gay gắt trong nước và
khủng hoảng kinh tế. Ba nước đế quốc Nga, Đức, Áo Hung lần lượt sụp đổ. Thắng
lợi của hai cuộc cách mạng ở Nga năm 1917 đã đẫn tới sự sụp đổ hoàn toàn của đế
quốc Nga. Đế quốc Đức và Áo Hung thì bị bại trận, bị bại trận, tàn phá nặng nề
và những cuộc cách mạng bùng nổ đã đẩy nước này vào tình trạng khủng hoảng
nghiêm trọng. Trong khi các cường quốc ngoài châu Âu không bị chiến tranh tàn
phá đã nhanh chóng vươn lên vượt các nước tư bản tây Âu. Sau chiến tranh thế
giới thứ nhất, Mĩ trở thành chủ nợ của các cường quốc Châu Âu(Châu Âu nợ Mĩ 10
tỷ đô la), năm 1919 hàng hóa của Mĩ xuất sang Châu Âu lên tới gần 8 tỷ đô la,
vốn đầu tư dài hạn ra nước ngoài đạt 6,4 tỷ đô la. Mĩ trở thành nước có dự trữ
vàng lớn nhất thê giới(chiếm khoảng 1/3 số vàng của thế giới).Trong khi đó,
Nhật Bản cũng có sự phát triển nhanh chóng, trong thời gian từ năm 1914 đếnnăm
1919, sản lượng công nghiệp của Nhật tăng gấp 5 lần, riêng sản lượng công
nghiệp chế tạo máy móc và hóa chất tăng 7 lần, thanh toán mậu dịch từ năm 1915
đến năm 1920 dư 2,2 tỷ yên, hàng hóa Nhật Bản tràn ngập các thị trường Châu Á,
Nhật Bản thành chủ sự của các đồng minh Châu Âu. So với trước chiến tranh thế
giới thứ nhất sự tương quan lực lượng giữ các cường quốc đã trở nên rõ rệt,
theo chiều hướng ngày càng bất lợi cho các nước tư bản châu Âu vốn chiếm vị trí
trung tâm trong thế giới tư bản chủ nghĩa trước đây.
Tác động thứ 2: Tương quan về lực lượng có sự thay đỗi đã
đặt cơ sở nền tảng cho sự thiết lập một trật tự thế giới mới sau chiến tranh,
trật tự Vecxai – Oasinhton:
Để giải quyết những vấn đề do chiến tranh
đặt ra, các hội nghị hòa bình đã được triệu tập. Hệ thống hòa ước Vecxai và sau
là hệ thống hiệp ước Oasintơn đã được kí kết nhằm tổ chức lại thế giới sau
chiến tranh, để phù hợp với tương quan lực lược mới.
Theo sự thỏa thuận giữ các nước thắng trận,
ngày 18-1-1919, tại Vécxai (ngoại ô Pari của Pháp)đã diễn ra hội nghị hòa bình để phân chia lại
thế giới và thiết lập một trật tự hòa bình, an ninh mới sau chiến tranh. Hội
nghị được tiến hành trong bối cảnh thế giới có nhiều chuyển biến to lớn do kết
quả của cuộc chiến tranh thế giới mang lại:
+ Thứ nhất: Đó là sự bùng nổ và
thắng lợi của cách mạng XHCN tháng Mười Nga, sự thiết lập của nhà nước XHCN
nghĩa đầu tiên trên thế giới. Vấn đề đặt ra đối với các nước tư bản: là làm sao
tiêu diệt được nước Nga Xô Viết để tiếp tục duy trì sự yên ổn của chủ nghĩa tư
bản.
+ Thứ hai: do hậu quả của chiến
tranh thế giới và tác động của cách mạng tháng Mười, một cao trào cách mạng đã
bùng nổ và dâng lên mạnh mẽ suốt nawm1918- 1923 ở châu Âu lẫn các nước thuộc
địa và phụ thuộc. Tuy khống chế và tranh giành nhau sau chiến tranh, các nước
đế quốc vẫn có một đặc điểm chung là tìm cách đàn áp và chống lại phong trào
cách mạng.
+ Thứ ba: tương quan lực lược giữ
các nước tư bản sau chiến tranh đã thay đổi căn bản.
Nội dung: 3
nội dung chính:
+ Công ước thành lập hội quốc liên là văn
kiện đầu tiên được kí kết cùng với hiến chương của hội, lúc đầu có 44 nước tham
gia, trong đó Anh, Pháp, Italia và Nhật bản có tiếng nói quyết định, và là
thành viên thường trực của hội đồng.
+ Đối với “ vấn đề Nga”, các cường quốc đưa
ra nhiều biện pháp chống chính quyền Xô Viết và ngăn chăn ảnh hưởng của cách
mạng Nga.
+ Hòa ước Vécxai kí với Đức ngày 26-6-1919
là văn kiệt quan trọng nhất của hội nghị, hòa ước khẳng định nước phải chịu
trách nhiệm về tội ác chiến tranh, nước Đức buộc phải chấp nhận.
à Kết
luận: Các văn kiện ký kết tại hội nghị Vecxai hợp thành hoàn ước Vecsxai phân
chia lại thế giới sau chiến tranh. Hệ hống này tạo nên một nền hòa bình không
công bằng, chứa đựng nhiều mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế. Hệ thống hòa ước
càng khơi sâu thêm mâu thuẫn vốn có giữ các nước thắng trận và bại trận. Nó chỉ
phản ánh sự hòa hoãn tạm thời giữ các nước đế quốc thắng trận. Mặc dù hội nghị
này được mệnh danh là hội nghị hòa bình nhưng thực chất là các nước đế quốc
thắng trận muốn thông qua hội nghị này tìm cách bóc lột các nước bại trận,
chính điều này đã tạo ra những mâu thuẩn mới và là mầm mống của cuộc đại chiến
thế giới sau này. Mặc dù hội nghị Vec xai được tổ chức vì quyền lợi của các
nước thắng trận nhưng tất cả các nước thắng trận đều không thỏa mãn với kết quả
hội nghị. Trước hết là Mĩ, sau là Nhật và Pháp.
Do không thỏa mãn những mục tiêu đặt ra, nên
thượng viện Mĩ đã không phê chuẩn hiệp ước này và Mĩ đã rút ra khỏi Hội quốc
liên nên Mĩ đã không bị lệ thuộc vào hệ thống này mà theo đuổi một ý đồ khác
nhằm thiết lập địa vị ưu thế của Mĩ do đó đã dẫn đến hội nghị Oasintơn(từ
11-1921 đến 12-1922)với 9 nước tham dự Anh, Pháp, Mĩ, Italia, NB, Bỉ, Hà Lan,
Bồ Đào Nha, và Trung Quốc, Hội nghị bàn về quan hệ quốc tế ở Thái Bình Dương,
Trung Quốc, và vấn đề hạn chế vũ trang. Hội nghị đã kí 3 hiệp ước quan trọng:
+ Hiệp ước ngày 3-12-1921 giữu Mĩ, Anh,
Nhật và Pháp đã thay thế hiệp ước đông minh Anh-Nhật(kí năm 1902 và gia hạn
1911)xác định việc duy trì nguyên trạng
ở Thái Bình Dương, ngăn chặt sự bành trướng của Nhật ra các thuộc địa khác.
+ Hiệp ước 5 nước kí ngày 3-12-1921, giữ Anh,
Mĩ, nhật, Pháp, Italia nhằm tạo thế
quân sự bằng quân sự ở Thái Bình Dươn.
+ Hiệp ước 9 nước
về Trung quốc do các nước tham dự hội nghị kí 6-12-1922, cam kết “tôn trọng, độc lập, sự toàn vẹn lãnh thổ và
hành chính của trung Hoa, xác định
chính sách mở cử đối với Trung Quốc tức phủ nhận đặc quyền của bất cứ quốc gia
nào vào Trung Hoa).
à
Hội nghị Oa sin tơn hoàn toàn có lợi cho Mĩ, Mĩ được nâng địa vị hải quân ngang
hàng với Anh, hạn chế sự bành trướng của Nhật ở Trung Quốc và Châu Á Thái Bình
Dương. Mĩ đã làm được những gì mà hội nghị Vecxai chưa làm được bằng cách lập
một khuôn khổ mới: một măt, làm xói mòn kết quả của hội nghị Vecxai, làm cho
tác dụng thực tiễn của nó yếu đi. Mặt khác, tổ chức lại thế giới TBCN sau chiến
tranh hoàn chỉnh hơn. Đó là hệ thống hòa
ước Vécxai – Oasintơn. Trật tự này hoàn toàn phục vụ cho lợi ích của các nước
đế quốc thắng trận, chà đạp lên quyền lợi của các dân tộc, gây nên những mâu
thuẫn sâu sắc giữ các nước đế quốc với gần 20 năm giữ hai cuộc chiến tranh thế
giới(1919-1939).
Tác động thứ ba: Sau chiến tranh thế giới, thắng lợi
của cách mạng thắng Mười Nga năm 1917 cũng tạo ra một chuyển biến căn bản của
tình hình thế giới. Chủ nghĩa tư bản không còn tồn tại như một hệ thống duy
nhất thống trị thế giới nữa. Sự ra đời và phát triển lớn mạnh của nhà nước xã
hội chủ nghĩa đầu tiên trở thành một thách thức to lớn đối với các nước tư bản
chủ nghĩa. Đồng thời, đây cũng là thắng lợi trong thực tiễn của giai cấp công
nhân, của chủ nghĩa Mác, đánh dấu sự thắng lợi to lớn của chủ nghĩa Mác- Lê Nin
trong thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Nhận
xét:
Như vậy, hậu quả của chiến tranh thế giới I
đã có những tác động trực tiếp và gián tiếp tới quan hệ quốc tế lúc bấy giờ.
Một mặt, trong quan hệ quốc tế thời kì này nổi cộm lên những mâu thuẫn trong
nội bộ các nước đế quốc với tham vọng của các nước lớn luôn hoạt động khống chế
và tranh giành nhau sau chiến tranh. Mặt khác, các nước đế quốc trong đó Anh,
Pháp, Mĩ âm mưu bóp nghẹt thành quả Cách mạng tháng Mười, ngăn chặn làn sóng
cộng sản. Đó là nguy cơ bên trong đẩy những căng thẳng trong quan hệ quốc tế
dẫn tới một cuộc chiến tranh thế giới lớn thứ hai vào giữa thế kỉ XX.
II.2 Đóng góp của cách mạng tháng Mười Nga đến quan hệ
quốc tế:
2.1 Bối cảnh lịch sử trước cách mạng tháng Mười Nga – 19172.
1.1 Bối cảnh quốc tế:
Trước Cách mạng Tháng Mười năm 1917, quan
hệ quốc tế giữa các quốc gia, các dân tộc dựa trên cơ sở sự thống trị ,sự bất
bình đẳng.Những năm cuối của thế kỉ XIX đầu XX đã diễn ra nhiều cuộc chíên
tranh như chiến tranh Mỹ - Tây Ban Nha ( 1898 ). Nhằm để giành giật thị trường
của nhau và phân chia lại thế giới. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
phát triển mạnh mẽ. Năm 1914 , chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ.
2.1.2 Bối cảnh nước Nga:
Thực tiễn nước Nga năm 1917
cũng cho thấy, Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 là một cuộc cách mạng XHCNvĩ
đại, đã bùng nổ do sự chín muồi của các nhân tố kinh tế, chính trị, xã hội. Là
kết quả của sự phát triển CNTB Nga và CNTB thế giới trong thời kì ĐQCN
- Về kinh tế: cuối thế
kỉ XIX đầu XX ở Nga CNTB đã phát triển nhanh chóng. Đầu XX Nga đã phát triển
sang giai đoạn tư bản độc quyền. Tuy nhiên, những nhiệm vụ của Cách mạng dân
chủ tư sản vẫn chưa được giải quyết.
Bên cạnh quan hệ sản xuất
TBCN thì quan hệ sản xuất phong kiến,
nông nô vẫn tồn tại nặng nề.Sự phát triển của CNTB Nga đã làm cho các mâu thuẫn
giai cấp trở nên chồng chéo và sâu sắc.
- Về chính trị: Nga là
một nước quân chủ chuyên chế, quyền lực nằm trong tay Nga Hoàng. Tất cả các
quyền tự do dân chủ bị thủ tiêu, nhân dân Nga không được hưởng một quyền lợi
chính trị nào.
- Về xã hội: nước Nga
là một nhà tù của các dân tộc. Nga Hoàng lại thực thi chính sách kì thị dân tộc
đã làm cho mâu thuẫn dân tộc trỡ nên sâu sắc. Đầu thế kỉ XX, Nga là một thực
thể kinh tế - chính trị - xã hội phức tạp, Nga hội tụ đầy đủ mâu thuẫn cơ bản
của thời đại, nó đều lên đến đỉnh điểm và yêu cầu phải giải quyết : tư sản và
vô sản, địa chủ phong kiến và nông dân…. Nhưng mâu thuẫn bao trùm là mâu
thuẫn giữa nhân dân Nga với Đế quốc Nga Hoàng. Nước Nga trở thành khâu yếu nhất
trong sợi dây chuyền ĐQCN.Việc nước Nga tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất
là điều kiện khách quan, chất xúc tác làm cho những yếu tố mâu thuẫn nước Nga
ngày càng phát triển. Lúc này ở Nga, Đảng Cộng Sản Bônsêvích được
thành lập là đội tiên phong của giai cấp vô sản Nga.
Như vậy cuối thế kỉ XIX đầu
XX Nga đã hội tụ đầy đủ điều kiện cho cuộc cách mạng diễn ra. Nó vừa mang tính
đặc thù vừa mang tính phổ biến.
2.2 Diễn biến
Sau khi nước Nga trải qua cuộc Cách mạng
dân chủ tư sản Tháng Hai năm 1917 và giành được thắng lợi đã lật đổ được chế độ
Nga Hoàng chuyên chế thống trị nhân dân từ bao đời nay, Nga trở thành nước dân
chủ.Tuy nhiên, cuộc Cách mạng Tháng Hai đã tạo nên một tình thế cách mạng đặc
biệt ở Nga đó là sự tồn tại song song hai chính quyền: chính phủ lâm thời tư
sản và các Xô viết đại biểu công nhân và binh lính.Hai chính quyền này đại diện
cho lợi ích của các giai cấp khác nhau nên không thể cùng tồn tại, giải quyết
vấn đề này chính là nhiệm vụ tiếp theo của cuộc cách mạng vô sản ở nước Nga.
Chính phủ tư sản lâm thời sau khi thành
lập, đã không thực hiện lời hứa của mình mà lại tiếp tục xô đẩy nhân dân vào
cuộc chiến tranh Đế quốc.
Đảng
Bônsevich hoạt động công khai nhưng trong nội bộ Đảng lại có những quan điểm và
nhận thức khác nhau. Cách mạng Nga đang đứng trước ngã ba đường.
Ngày
3/4/1917, Lênin từ Thụy Sĩ về nước. Lênin đã đề ra sách lược cho cuộc cách
mạng, đường lối để chuyến biến từ CMDCTS lên CMXHCN.
Do
tình hình thực tiễn của cách mạng từ tháng 4 đến tháng 7 nên Cách mạng diễn ra
theo phương pháp hòa bình. Ngày 18/4, Bộ trưởng ngoại giao Miliucôp đã gửi công
hàm cho các nước đồng minh cam kết tiếp tục đưa cuộc chiến tranh đến thắng lợi.
Hàng vạn quần chúng nhân dân đã xuống đường biểu tình, cuộc biểu tình chứng tỏ
nhân dân đã thấy rõ bộ mặt thật của chính phủ lâm thời.Đây là cuộc đụng độ đầu
tiên của giai cấp tư sản và vô sản, vai trò của giai cấp vô sản ngày càng được
khẳng định.
Tháng
6/1917, Đại hội Xô Viết Nga lần thứ nhất đã diễn ra làm cho uy tín, vai trò của
những người đã đi vào cuộc sống của nhân dân, ngày càng được đề cao trong xã
hội.
Sang
tháng 7, đây là thời kì mà cách mạng phát triển hòa bình đã chấm dứt. Tháng 8
đến tháng 10 là thời kì giành chính quyền bằng khởi nghĩa vũ trang, đăc biệt là
sự kiện tháng 10. Đêm 24/10, quân khởi nghĩa tấn công cung điện Mùa đông và
cuộc khởi nghĩa ở Pêtôgrat giành thắng lợi hoàn toàn.
Như
vậy Cách mạng XHCN Tháng Mười Nga giành thắng lợi hoàn toàn và thiết lập nên
chính quyền mới ở Nga
2.3
Đóng góp của cách mạng tháng Mười nga đối với quan hệ quốc tế:
2.3.1 Với thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại dưới sự lãnh đạo của chính đảng
vô sản Bonsevich đã lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động đấu tranh
giành được chính quyền, mở ra một thời
kì mới trong quan hệ quốc tế, thời kì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời, với thắng lợi của cuộc cách mạng này lần đầu tiên trong lịch sử, chủ
nghĩa xã hội đã thành hiện thực, chặt đứt khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền
của của chủ nghĩa đế quốc, làm chủ nghĩa đế quốc không còn là hệ thống duy nhất
trên thế giới.
Thắng lợi của Cách mạng tháng 10 đã dẫn đến
sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa Xô Viết đầu tiên trên thế giới, chặt
đứt một khâu quan trọng trong toàn bộ sợi dây xiềng của chủ nghĩa đế quốc, phá
vỡ một mảng lớn của hệ thống đế quốc thực dân làm cho chủ nghĩa tư bản không
còn là một hệ thống hoàn chỉnh bao trùm Thế giới. Ngoài những mâu thuẫn vốn có
ngày càng sâu sắc và quyết liệt trong chủ nghĩa tư bản( mâu thuẫn giữ tư sản và
vô sản; mâu thuẫn giữ đế quốc và các dân tộc bị áp bức; mâu thuẫn giữ đế quốc
và đế quốc), sự ra đời của nhà nước Xô Viết đã làm nảy sinh mâu thuẫn mới: mâu
thuẫn giữu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Đúng như Lênin đã chỉ ra tại
Đại hội lần thứ hai các Xô Viết toàn Nga(từ 23 đến 28/12 năm 1921): “
Hiện nay trên thế giới có hai thế giới: thế giới cũ, tức là chủ nghĩa tư bản,
đang bị lung túng sa lầy, nhưng nó sẽ không bao giờ lùi bước, và thế giới mới
đang lớn lên, hiện nay còn rất non yếu, nhưng nó sẽ lớn mạnh,vì nó là vô địch” (Lênin:toàn tập,Nxb Tiến bộ,
Matxcơva, 1978, tập 44. Tr.366). Những mâu thuẫn đó đã tạo ra thách
thức đối với chủ nghĩa tư bản.
Có thể thấy rõ điều này, sau khi cách mạng
tháng Mười thắng lợi và nhà nước Xô Viết ra đời của cùng với những chính sách
tiến bộ như: Ngày 2-11-1917 chính quyền Xô viết đã thông qua “Tuyên ngôn về
quyền các dân tộc Nga”, thừa nhận quyền phát triển tự do và quyền bình đẳng các
dân tộc sống trên lãnh thổ Nga. Cuối năm 1917, chính quyền Xô Viết đã bắt đầu
các biện pháp quốc hữu hóa các xí nghiệp lớn, giao thông vận tải, ngân hàng và
ngoại thương. Trong nông thôn Đảng và nhà nước tiến hành tịch thu ruộng đất của
địa chủ và chia cho nông dân…, với những chính sách này uy tín của Đảng
Bonsevich ngày càng được khẳng định, khối đại đoàn kết toàn dân ngày càng được
củng cố vững chắc. Chính vì vậy các nước đế quốc hết sức lo sợ, với âm mưu phá
hoại tiến tới bóp chết chính quyền cách mạng còn non trẻ, 14 nước đế quốc đã
nhanh chóng tập hợp lực lượng, phối hợp hành động cùng với bọn phản động trong
nước gây nên cuộc nội chiến và can thiệp vũ trang vào nước Nga Xô Viết.
Các
cường quốc đã đưa ra nhiều biện pháp chống chính quyền Xô Viết và ngăn chặn ảnh
hưởng của cách mạng tháng Mười Nga. Đó là việc các đạo quân can thiệp Anh,
Pháp, Mĩ, Nhạt Bản vẫn tiếp tục hoạt động ở Nhật Bản vẫn tiếp tục hoạt động ở
miền Bắc và viễn Đông nước Nga, bọn phản động các nước láng giềng Ba Lan,
Rumani tấn công nhằm lật đỏ chính quyền XôViết. Nhưng những âm mưu can thiệp
vào nước Nga Xô Viết, các nước tư bản phải xem lại chính sách của mình.
Giữ vòng vây của chủ nghĩa tư bản, nước
Nga bắt đầu quan hệ với nước Đức. Hai nước đã kí kết hiệp ước Roopalô(4-1922)
thiết lập quan hệ ngoại giao và hợp ác bình đẳng. Từ năm 1924, tất cả các nước
tư bản chủ yếu lần lượt quan hệ với nước Nga Xô Viết.
àQua
đó, chúng ta thấy thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga và sự thành lập
nước Nga xô viết báo hiệu một hệ thống
chính trị - kinh tế mới ra đời đối lập với chủ nghĩa tư bản nhưng nó cũng làm
cho mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế trở nên phức tạp, chằng cheó chi phối quá
trình hình thành và tan rã của trật tự thế giới Vecsxai –Oasintơn trong 20 năm
(1919 -1939).
2.3.2
Cách mạng tháng Mười Nga đã tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng thế giới,
làm dấy lên một phong trào cách mạng rầm rộ ở khắp châu Á, châu Âu và châu Phi
và châu Mĩ La Tinh.
Sau CM tháng Mười, một cao trào cách mạng
của giai cấp vô sản cách nước Châu Âu đã diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ làm chấn động
đến tận gốc nền thống trị của giai cấp tư bản độc quyền trong nhiều nước. Đặc
biệt là cao trào cách mạng vô sản đã diễn ra sôi nổi, dồn dập ở hầu hết các
nước châu Âu trong những năm 1918 -1923. Đáng chú ý là trên các ngọn cờ của mình,
giai cấp vô sản các nước phương Tây viết những khẩu hiệu mà cuộc cách mạng Nga
đã chiến thắng dưới những khẩu hiệu ấy.
phong trào cách mạng thế giới đã nổ ra với
số lượng và chất lượng rộng khắp và điều này tất yếu dẫn đến sự ra đời các Đảng
Cộng sản sẽ ra đời để bảo vệ và lãnh đạo cách mạng. Năm 1918, đã xuất hiện một
loạt các Đảng cộng sản: Đảng cộng sản Áchenti na, Phần Lan, Áo, Hunggri, Ba
Lan, Đức…Cách mạng tháng Mười Nga thắng lợi đánh dấu sự chiến thắng của giai
cấp công nhân trực tiếp tạo điều kiện thúc đẩy việc thành lập quốc tế Cộng Sản
vào 1919. Bên cạnh đó, Quốc tế cộng sản cũng đã mở ra một thời kỳ mới trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc ở châu Á, châu Phi và khu vực Mĩ
La-tinh đi theo con đường Cách mạng vô sản dưới ngọn cờ tư tưởng của chủ nghĩa
Mác – Lê-nin.
Phong
trào giải phóng dân tộc là một bộ phận khăng khít của phong trào Cách mạng vô
sản Thế giới. Nhờ đó, phong trào giải phóng dân tộc nhiều nước phát triển mạnh
mẽ dẫn đến sự thành lập của các đảng cộng sản: Đảng Cộng sản In đô nê xia
(1920), Đảng Cộng sản Trung Quốc (1921 ), Đảng Cộng sản Ai Cập (1921 ), Đảng
Cộng sản Bra xin(1922), Đảng Cộng sản Cu Ba (1925), Đảng Cộng sản Việt Nam
(1930 ), Đảng Cộng Thái Lan (1930).
Như vậy Quốc tế cộng sản đánh dấu sự thắng
lợi của chủ nghĩa Mác-Lênin với chủ nghĩa cơ hội xét lại, là cầu nối, trung tâm
lãnh đạo phong trào cộng sản công nhân quốc tế và phong trào giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa và phụ thuộc mà hạt nhân là Đảng Bônxêvích Nga, củng cố và
đoàn kết hang ngũ Đảng cộng sản, vũ trang cho các Đảng về mục tiêu, nhiệm vụ và
phương pháp đấu tranh qua 7 kì đại hội:
Tại đại hội III của Quốc tế cộng sản năm
1921 ở Matxcova có 605 đại biểu của 103 tổ chức ở 52 nước tham dự, đến đại hội
IV năm 1922 có đại biểu 58 nước đại diện cho gần 2 triệu đảng viên…
Kế
luận:
Qua đó chúng ta có thể khẳng định rằng cách
mạng tháng Mười Nga mà trực tiếp thông qua QTCS đã đưa những tư tưởng của giai
cấp công nhân truyền bá rộng rãi thúc đẩy các Đảng cộng sản ra đời góp phần rất
quan trọng vào sự phát triển và thắng lợi của phong trào công nhân ở các nước
tư bản để chống lại sự áp bức bóc lột của chủ nghĩa Đế quốc ở Châu Âu và phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc ở Á – Phi – Mĩ la
tinh.
2.3.3 Cách mạng tháng Mười nga để lại nhiều
bài học kinh nghiệm quý giá cho phong trào cách mạng thế giới, nhất là phong
trào giải phóng dân tộc, đó là các bài học về chính đảng vô sản, liên minh công
nông, bạo lực cách mạng, thời cơ cách mạng, về giành và giữ chính quyền cách
mạng.
Chúng ta có thể thấy được những bài học quý
giá này đã được Bác Hồ áp dụng một cách sáng tạo và có hiệu quả như thế nào
trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, giành lại độc lập chủ
quyền cho đất nước. Là một người cộng sản chân chính và luôn trung thành với
chủ nghĩa Mac-Lenin, Người đã vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin và
những bài học kinh nghiệp của cách mạng tháng Mười Nga vào cách mạng Việt Nam . Trong hội
nghị thống nhất các tổ chức cộng sản ở Cửu long- Hương Cảng (Trung Quốc) vào
đầu tháng giêng năm 1930, bản chính cương vắn tắt và sách lược vắn tắt do người
khởi thảo được hội nghị thông qua đã vạch ra phương hướng phát triển của cách
mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Đường lối đó là kết quả của sự phối hợp nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu
nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản, giữa tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản với thực
tiễn của cách mạng Việt Nam, chính nhờ có một đường lối đúng đắn đã được thực
tiễn chứng minh trong cách mạng tháng Mười nên cách mạng Việt Nam đi từ thắng
lợi này đến thắng lợi khác và cuối cùng đã giành lại độc lập cho đất nước, tự
do cho dân tộc. Những bài học trong cách mạng tháng Mười cũng đã được nhiều dân
tộc thuộc địa khác áp dụng trong công cuốc đấu tranh giải phóng dân tộc mình và
đã đạt được những thắng lợi to lớn.
2.3.4 Thắng lợi của cách mạng tháng Mười,
nó đã chứng tỏ sự kế thừa, phát triển và bảo vệ những tư tưởng của chủ nghĩa
Mác – Lênin làm cho chủ nghĩa Mác Lênin trở thành một lí luận cách mạng khoa
học, là chân lí có tính chất phổ biến, là ánh sáng soi đường, là kim chỉ nam
cho mọi cuộc cách mạng đi tới thắng lợi.
Với
thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa xã hội khoa học từ lý luận đã trở
thành hiện thực, trở thành lẽ sống, niềm tin hy vọng
của lãnh nhân dân lao động. CNXH đã trở thành hiện thực sinh động từ châu Âu
sang châu Á đến châu Mỹ- La tinh. Chính vì lẽ đó, từ sự phát triển sâu
rộng và sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa Mác -Lê nin đã dẫn đến một hệ quả rất
quan trọng đối với cách mạng thế giới .Đó là sự ra đời của các Đảng Cộng sản đã chứng minh giá trị vĩ đại và sức sống mãnh liệt, tính vĩnh
hằng của chủ nghĩa Mác – Lênin, đỉnh cao trí tuệ của nhân loại, vũ khí sắc bén
và không có gì có thể thay thế của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
trong cuộc đấu tranh xoá bỏ chế độ cũ, xây dựng chế độ mới. Mặc dù bị bọn cơ
hội xét lại và các lực lượng thù địch của chủ nghĩa tư bản luôn tìm cách xuyên
tạc, bôi nhọ, phủ nhận, nhưng từ sau Cách mạng Tháng Mười, chủ nghĩa Mác –
Lênin được truyền bá nhanh chóng trên khắp hành tinh, trở thành kim chỉ nam,
ngọn đuốc luôn toả sáng soi đường, dẫn dắt, thúc đẩy phong trào cách mạng thế
giới: “Cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mười 1917 ở Nga thắng lợi, cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918) kết
thúc đã mở ra một thời kỳ phát triển mới trong phong trào giải phóng dân tộc ở
các nước thuộc địa và nửa thuộc địa. Tiếng vang của Cách mạng tháng Mười Nga đã
vượt qua biên giới của nó, tác động mạnh mẽ đến hầu khắp các quốc gia – dân tộc
trên hành tinh. Trong đêm dài đen tối đầy bất công của chế độ: phong kiến, tư
bản thực dân, nhất là qua những năm tháng khủng khiếp của Chiến tranh thế giới
thứ nhất (1914-1918), nhân dân ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa, những
người phải chịu đựng nhiều tai họa nhất của chiến tranh đã tìm thấy ở Cách mạng
tháng Mười những niềm hi vọng to lớn, đối với mình, thúc đẩy họ vùng dậy đấu
tranh giành quyền sống, giành độc lập dân tộc”. Về Cách mạng tháng
Mười – Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá và nhận xét như sau: “Như ánh mặt trời chói lọi, Cách mạng tháng
Mười chiếu rọi khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu, hàng triệu người bị áp bức,
bóc lột trên Trái đất. Trong lịch sử loài người, chưa có cuộc Cách mạng nào có
ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế” (Hồ Chí Minh).
Đồng thời, khi nói đến cách mạng tháng
Mười, chúng ta không thể không khẳng định vai trò của Lê nin đối với dân
tộc Nga cũng như các dân tộc trên thế giới:
Đầu thế kỉ XX, trung tâm cách mạng thế giới
chuyển từ Đức sang Nga, Quốc tế II trong giai đoạn đầu do Angghen đứng đầu đã
tích cực hoạt động tuyên truyền chủ nghĩa Mac vào phong trào công nhân, chống
chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội. Quan điểm của chủ nghĩa xét lại cho rằng
đến giai đoạn chủ nghĩa đế quốc bản chất của chủ nghĩa tư bản đã thay đôi, do
đó những nguyên lí của chủ nghĩa Mác về sự diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư
bản không còn đúng nữa, dưới sự lãnh đạo của Angghen, Quốc tế II bảo vệ sự
trong sáng của chủ nghĩa Mác, thúc đẩy phong trào công nhân phát triển ở các
nước.
Tuy nhiên, sau khi Angghen qua đời, Quốc tế
II sa vào chủ nghĩa cơ hội và bị chủ nghĩa cơ hội đánh bại. Chủ nghĩa cơ hội
cho rằng: Đấu tranh nghị trường là phương pháp tối ưu có thể đem lại thắng lại
cho giai cấp công nhân, hay chống laị những vấn đề cốt lõi của chủ nghĩa Mác
như: vai trò của giai cấp vô sản, giai cấp lãnh đạo cách mạng, phương pháp đấu
tranh ám sát, bạo động, chống chủ nghĩa xã hội, chuyên chính vô sản, chống liên
minh công nông…
Nhưng đến cuối chiến tranh thế giới thứ I,
Lê Nin- người kế tục trung thành của chủ nghĩa Mác đã có những đóng góp to lớn
làm hồi sinh phong trào cách mạng thế giới. Lê Nin đã tham gia phong trào cách
mạng, viết nhiều tác phẩm nổi tiếng như : “Làm gì”, “Chủ nghĩa tư bản Nga”,
“Một bước tiến hai bước lùi”…,Đồng thời, Lê Nin ra sức bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa Mác và phát triển chủ nghĩa Mác trong thời kì chủ nghĩa đế quốc. Chủ
nghĩa Mác nêu nguyên tắc xây dựng Đảng là tập trung- dân chủ thì Lê Nin đã phát
triển thành tập trung thì phải dân chủ và ngược lại, phê bình và tự phê bình sẽ
làm trong sáng Đảng, phát triển cách mạng không ngừng trong thời kì đế quốc chủ
nghĩa, Lê Nin cho rằng trong thời kì củ nghĩa đế quốc( đêm trước của cách mạng
vô sản), giai cấp tư sản chưa đủ mạnh nên giai cấp vô sản phải đứng lên nắm lấy
lá cờ phong trào dân chủ cách mạng và giành lấy chính quyền. Qua đó, chúng ta
có thể thấy rằng Lê Nin đóng một vai trò rất quan trọng đối với phong trào cách
mạng thế giới.
III.KẾT LUẬN:
Như vậy, sau khi tìm hiểu tác động của hậu
quả chiến tranh thế giới thứ nhất và đóng góp của cách mạng tháng Mười Nga đối
với quan hệ quốc tế thì chúng ta thấy rằng, trong thời kỳ này các mối quan hệ
giữa các nước trên thế giới rất phức tạp và chồng chéo nhau, đó không chỉ là
những mâu thuẩn giữa các nước đế quốc sau khi hệ thống Vecxai – Oasinhton được
thiết lập, đó còn là mâu thuẩn giữa các nước đế quốc với nước Nga xô viết,
chính những mâu thuẩn này đã từng bước đẩy thế giới đi đến cuộc chiến tranh thế
giới thứ hai.
Tuy nhiên, với sự thắng lợi của cách mạng
tháng Mười Nga đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào công nhân ở các nước tư bản và phong
trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, sau cách mạng tháng Mười chủ
nghĩa Mác- Lênin được xâm nhập và phổ biến ở nhiều nước, đây là một yếu tố quan
trọng cho sự ra đời của các Đảng cộng sản đặt dưới sự lãnh đạo chung của Quốc
tế cộng sản, vì vậy phong trào đấu tranh của các nước dần dần có sự đoàn kết
chung, tạo nên một sức mạnh để chống lại chủ nghĩa đế quốc trên phạm vi toàn
thế giới. Có thể nói đây là một điểm nhấn quan trọng trong mối quan hệ quốc tế
sau cách mạng tháng Mười Nga và sau chiến tranh thế giới thứ nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
* Sách:
1.Hồ Châu (cb), Tập bài giảng quan hệ quốc
tế, NXB Lý luận chính trị, H.2004.
2. Lê Văn Quang, Lịch sử quan hệ quốc tế từ
năm 1917-1945, NXB Giáo dục, H.2004.
3. Nguyễn Quốc Hùng, Cách mạng tháng Mười
Nga 1917- Lịch sử và hiện tại, NXB Chính trị quốc gia, H.2007.
4. Nguyễn Trọng Chuẩn, Cách mạng tháng Mười
và ý nghĩa thời đại của nó, NXB Chính trị quốc gia, H.1997
5. Phan Ngọc Liên, Chiến tranh thế giới thứ
I (1914-1918), NXB Giáo dục, H.2001.
6. Nguyễn Anh Thái (cb), Lịch sử thế giới
hiện đại từ 1917-1945, NXB Đại học quốc gia, H.1999.
7. Lê Văn Anh – Hoàng Thị Minh Hoa – Đinh
Thị Loan – Bùi Thị Thảo, Bài giảng lịch sử thế giới hiện đại(1917 – 1945), Đại
học sư phạm – Đại học Huế, 2006.
8. N.Ni-ki-phô-rốp, trích theo lịch sử thế
giới, Nxb Sử học, Hà Nội, 1961.
* Website:
1.Vi.wikidia.org/wiki/chiến_tranh_thế_giới_thứ_nhất
2.www.shopkienthuc.net/lich su cach mang
thang Muoi Nga
3.quankhoasu.blogspot.com/lich su the
gioi-Pham Thi Vinh
*
Tạp chí:
1. Nghiên cứu lịch sử, số 6 .1997
Nội dung tóm tắt: “Việt Nam tiếp tục
giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo con đường của Cách
mạng tháng Mười Nga vĩ đại ”, tr.1-tr.6.
2. Sinh hoạt lí luận, số 2(87)/2008.
Nội dung tóm tắt: “Góp phần vào cuộc đấu
tranh tư tưởng nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện hiện nay ”.
Young be a:
Young be a:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Nhận xét